Đó là hai trong số những thông tin về đầu tư đáng chú ý trong tuần qua.
Bình Dương bổ sung 4.266 tỷ đồng đầu tư Dự án đường Vành đai 3 TP.HCM
UBND tỉnh Bình Dương vừa có Quyết định số 2213/QĐ-UBND giao bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương (vốn trong nước) giai đoạn 2021 – 2025 là 4.266 tỷ đồng cho 2 Dự án thành phần thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 3 TP.HCM.
Một đoạn đường Vành đai 3, TP.HCM từ Mỹ Phước đến Tân Vạn đi qua Bình Dương đã hoàn thành đưa vào khai thác. |
Cụ thể, giao bổ sung cho Dự án thành phần 5 – xây dựng đường Vành đai 3 (TP.HCM) đoạn qua tỉnh Bình Dương (bao gồm nút giao Tân Vạn và cầu Bình Gởi) là 1.266 tỷ đồng.
Dự án thứ hai được bổ sung vốn là Dự án thành phần 6 – bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đường Vành đai 3 đoạn qua tỉnh Bình Dương được bổ sung thêm 3.000 tỷ đồng.
Theo báo cáo tiến độ của Ban Quản lý Dự án Đầu tư xây dựng công trình giao thông tỉnh Bình Dương, đường Vành đai 3 (TP.HCM) đoạn qua địa phận tỉnh Bình Dương hiện đang triển khai các bước giải phóng mặt bằng.
Theo kế hoạch đến tháng 3/2023 đấu thầu xong dự án, chậm nhất đến ngày 30/4/2023 khởi công dự án đường Vành đai 3 TP.HCM đoạn qua Bình Dương.
Đường Vành đai 3, TP.HCM đoạn đi qua tỉnh Bình Dương có chiều dài 26 km. Điểm đầu từ nút giao Tân Vạn đến cầu Bình Gởi để kết nối với huyện Củ Chi, TP.HCM. Dự án có tổng mức đầu tư 19.280 tỷ đồng, trong đó, chi phí bồi thường, hỗ trợ tái định cư 13.528 tỷ đồng. Thời gian thực hiện dự án từ năm 2022 – 2026.
Năm 2022, tổng kế hoạch vốn đầu tư công của Bình Dương đã giao là 8.909 tỷ đồng, phân bổ cho 316 dự án, tăng 130 tỷ đồng so với kế hoạch vốn được Thủ tướng Chính phủ giao đầu năm.
Tính đến ngày 15/8/2022, Bình Dương đã giải ngân vốn đầu tư công được hơn 3.022 tỷ đồng, đạt 33,9% kế hoạch năm 2022 do HĐND tỉnh giao.
Thừa Thiên Huế đầu tư 252 tỷ xây dựng trụ sở Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh
Văn phòng HĐND tỉnh Thừa Thiên – Huế cho biết, HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế vừa ban hành nghị quyết phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tưDự án đầu tư xây dựng trụ sở Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh.
Theo đó, dự án sẽ được thực hiện tại khu đất YT 05, thuộc đồ án Điều chỉnh và mở rộng quy hoạch chi tiết khu dân cư phía Bắc, phường Hương Sơ và An Hoà, TP Huế và được chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1, chủ đầu tư sẽ bồi thường giải phóng mặt bằng, san nền tạo mặt bằng khu đất quy hoạch xây dựng, đầu tư xây dựng mới khối nhà hành chính và các khối nhà chuyên môn, hạng mục phụ trợ phục vụ hoạt động chuyên môn với tổng diện tích sàn xây dựng khoảng 6.763 m2.
Ngoài ra, giai đoạn này cũng sẽ mua sắm, lắp đặt các thiết bị gắn với công trình để xử lý nước thải, phòng cháy chữa cháy và thiết bị làm việc văn phòng theo tiêu chuẩn.
Giai đoạn 2 của dự án sẽ tiến hành san nền tạo mặt bằng diện tích khu đất theo quy hoạch, xây dựng khu khám bệnh đa khoa, khối labo xét nghiệm và nghiên cứu vắc xin theo tiêu chuẩn với tổng diện tích sàn xây dựng khoảng 6.143 m2; xây dựng các hạng mục phụ trợ phục vụ công trình theo quy hoạch mặt bằng tổng thể và mua sắm, lắp đặt các trang thiết bị.
Dự kiến tổng mức đầu tư của dự án lên đến 252 tỷ đồng, trong đó giai đoạn 1 đầu tư 95 tỷ đồng, giai đoạn 2 đầu tư 157 tỷ đồng.
Đầu tư 6.190 tỷ đồng xây đường cao tốc Mỹ An – Cao Lãnh giai đoạn 1
Ban quản lý dự án Mỹ Thuận vừa đề nghị Bộ GTVT thẩm định Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ An – Cao Lãnh giai đoạn 1.
Vị trí đoạn đường Mỹ An – Cao Lãnh (Nguồn: Ban quản lý dự án Mỹ Thuận – Bộ GTVT) |
Điểm nhấn trong Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án vừa được trình duyệt là tổng mức đầu tư công trình dự kiến tăng khoảng 1.420 tỷ đồng so với tổng mức đầu tư tại chủ trương đầu tư được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào cuối năm 2021 (6.190 tỷ đồng/4.771 tỷ đồng).
Các yếu tố khiến tổng mức đầu tư Dự án thay đổi gồm: chi phí GPMB tăng khoảng 353 tỷ đồng; chi phí xây dựng tăng khoảng 789 tỷ đồng; chi phí quản lý dự án, tư vấn và chi phí khác tăng khoảng 139 tỷ đồng; Chi phí dự phòng (tính bằng 15%, không gồm GPMB) tăng khoảng 139 tỷ tương ứng với các chi phí tăng nêu trên.
Dự án dự kiến vay vốn ODA từ Quỹ hợp tác phát triển kinh tế Hàn Quốc (EDCF) khoảng 4.459,58 tỷ đồng sử dụng để thanh toán chi phí xây dựng, thiết bị; chi phí tư vấn thiết kế kỹ thuật và giám sát thi công (không bao gồm thuế VAT), dự phòng phần vốn ODA.
Phần vốn còn lại sẽ sử dụng vốn đối ứng khoảng 1.730,6 tỷ đồng sử dụng để thanh toán thuế VAT (phần chi phí xây dựng, thiết bị; chi phí tư vấn thiết kế kỹ thuật và giám sát thi công); chi phí quản lý dự án, chi phí tư vấn trong nước như: chi phí khảo sát, lập dự án đầu tư, thẩm tra thiết kế kỹ thuật, chi phí thẩm tra, quyết toán dự án hoàn thành, chi phí khác… theo các quy định hiện hành; chi phí giải phóng mặt bằng; dự phòng phần vốn đối ứng, phí dịch vụ.
Dự án đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ An – Cao Lãnh giai đoạn 1 dài 26,56 km, có điểm đầu kết nối với tuyến N2 tại lý trình Km 96+875 (lý trình N2) gần 5 mố A2 cầu Kênh Giữa 1 của tuyến N2, thuộc thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp; điểm cuối tại nút giao An Bình (điểm đầu Dự án cầu Cao Lãnh), thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Trong giai đoạn 1, Dự án được xây dựng theo quy mô 4 làn xe hạn chế, bề rộng 17 m; vận tốc khai thác 80 km/h.
Dự án sau khi hoàn thành sẽ hình thành tuyến đường trục có năng lực thông hành lớn, tính cơ động cao liên kết giữa các vùng kinh tế trong nội khu tỉnh Đồng Tháp như thị trấn Mỹ An với TP. Cao Lãnh và liên kết vùng Đồng bằng Sông Cửu Long với vùng Đông Nam Bộ thông qua tuyến N2, đồng thời giảm chi phí hoạt động giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao thông vận tải hành khách và hàng hoá đạt hiệu quả cao. Tạo động lực phát triển mới cho thị trấn Mỹ An và vùng Tháp Mười của Đồng Tháp.
Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2203/QĐ-TTg ngày 27/12/2021 phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án “Đầu tư xây dựng công trình đường cao tốc Mỹ An – Cao Lãnh giai đoạn 1, trong đó xác định sẽ sử dụng vốn vay ODA của Hàn Quốc và vốn đối ứng để đầu tư xây dựng công trình trong giai đoạn 2021 – 2025.
Quảng Nam: Đề nghị đầu tư mở rộng, nâng cấp quốc lộ 14D theo hình thức BOT
Chiều 20/9, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Thanh đã có công văn số 6132/UBND – KTN kính gửi Văn phòng Chính phủ về việc đề nghị đầu tưDự án mở rộng, nâng cấp quốc lộ 14D trên tuyến đường hiện trạng theo hình thức BOT.
Quốc lộ 14D nối Cửa khẩu quốc tế Nam Giang. Ảnh: Thanh Chung |
Theo UBND tỉnh Quảng Nam, quốc lộ 14D, dài 74,4 km kết nối đường Hồ Chí Minh với Cửa khẩu quốc tế Nam Giang (Quảng Nam) là một phần của hành lang kinh tế Đông – Tây 2, đi qua lãnh thổ 3 nước Việt Nam, Lào và Thái Lan, có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Nam, TP.Đà Nẵng và Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
UBND tỉnh Quảng Nam cho hay, tuyến đường hiện nay có tiêu chuẩn kỹ thuật thấp, nhiều đường cong nhỏ, kết cấu mặt đường yếu, thường xuyên hư hỏng, không đảm bảo lưu thông cho các phương tiện vận chuyển hàng hóa có tải trọng lớn.
Theo ông Lê Trí Thanh, hiện nay, nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đang đầu tư tại Thái Lan, Lào có nhu cầu rất lớn về vận chuyển hàng hóa qua quốc lộ 14D để cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến tại khu vực ven biển trước khi xuất khẩu qua các cảng biển Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Ngoài ra, ông Thanh cho rằng, nhiều doanh nghiệp trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung cũng có nhu cầu vận chuyển hàng hóa được sản xuất tại Việt Nam sang tiêu thụ ở khu vực Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan qua tuyến đường này.
UBND tỉnh Quảng Nam cũng nêu rõ, do nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua Cửa khẩu quốc tế Nam Giang ngày càng lớn, hệ thống đường bộ phía nước bạn Lào đã được mở rộng trong khi Quốc lộ 14D chưa đáp ứng nhu cầu vận chuyển, Bộ Giao thông vận tải đã nghiên cứu, lập chủ trương đầu tư dự án Mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 14D nhưng chưa cân đối được nguồn vốn để triển khai thực hiện.
Trước đó, tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Quảng Nam ngày 26 và 27 tháng 3/2022, Thủ tướng Chính phủ đã thống nhất chủ trương nghiên cứu đầu tư tuyển dường mới nổi tử Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Nam Giang đến cảng biển Quảng Nam theo hình thức PPP.
Theo Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, sau khi khảo sát thực tế tuyến đường nối từ Cửa khẩu quốc tế Nam Giang đến cảng biển Quảng Nam thì tuyến đường hiệu quả nhất là đi theo Quốc lộ 14D hiện trạng. Phương án đầu tư tuyến đường mới không khả thi do địa hình khu vực rất khó khăn, chênh lệch độ cao rất lớn và địa chất phức tạp nên chi phí đầu tư rất cao.
Bên cạnh đó, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, khi xây dựng thêm tuyến mới thì không tận dụng được quỹ đất, kết cấu hạ tầng tuyến quốc lộ 14D hiện trạng, tốn kém chi phí bảo trì, bảo dưỡng đồng thời cho cả 2 tuyến đường, ngoài ra, tuyến mới phải đi qua khu vực Vườn quốc gia Sông Thanh sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiện trạng rừng tự nhiên tại khu vực này.
UBND tỉnh Quảng Nam kính đề nghị Văn phòng Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất chủ trương đầu tư Mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 14D theo hình thức BOT trên tuyến đường hiện trạng.
“Trong trường hợp này, sẽ nghiên cứu phương án thu phí và vị trí đặt trạm thu phí hợp lý (dự kiến chỉ thu phí đối với các xe vận chuyển hàng hóa qua lại Cửa khẩu quốc tế Nam Giang, vị trí đặt trạm thu phí tại Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Nam Giang) để không ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân đi lại trên tuyến đường này, không thuộc đối tượng vận chuyển hàng hóa qua cửa khẩu”, ông Lê Trí Thanh cho hay.
Bộ Xây dựng cho ý kiến về quy hoạch Khu công nghiệp Cà Ná
Bộ Xây dựng vừa cho ý kiến đối với Đồ án Quy hoạch phân khu xây dựng (tỷ lệ 1/2000) Khu công nghiệp Cà Ná, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận (sau đây viết tắt QHPK KCN Cà Ná).
Theo đó, Khu công nghiệp Cà Ná có diện tích 827,2 ha (theo quy mô diện tích được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận tại văn bản 620/TTg-KTN ngày 5/5/2015) nằm trong đồ án Quy hoạch chung xây dựng đô thị Cà Ná, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận đến năm 2035 đã được phê duyệt tại Quyết định số 480/QĐ-UBND ngày 31/12/2018 của UBND tỉnh Ninh Thuận (Quy hoạch chung 480). Việc UBND tỉnh Ninh Thuận chỉ đạo tổ chức lập QHPK KCN Cà Ná, làm cơ sở pháp lý triển khai các bước tiếp theo là đúng trình tự theo quy định hiện hành về quy hoạch xây dựng.
Theo Bộ Xây dựng, Đồ án QHPK KCN Cà Ná đã được lấy ý kiến về nội dung quy hoạch của các tổ chức, cá nhân và các cơ quan quản lý tại địa phương theo quy định tại Điều 16, Điều 17, Luật Xây dựng năm 2014…
Tuy vậy, Bộ Xây dựng cho rằng, một số vấn đề cần nghiên cứu, bổ sung trước khi phê duyệt. Đó là bổ sung căn cứ pháp lý Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế thay thế cho Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế; bổ sung thuyết minh ngoài việc đảm bảo quỹ đất xây dựng nhà ở công nhân cho khu công nghiệp còn phải bảo đảm quỹ đất xây dựng các thiết chế công đoàn và thiết chế văn hóa phục vụ công nhân và người lao động của khu công nghiệp.
Đối với việc hình thành các đoạn đường kết nối từ khu công nghiệp tới các quốc lộ, tỉnh lộ nằm ngoài ranh giới quy hoạch, Bộ Xây dựng cho rằng cần có phương án cụ thể về công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động của Khu công nghiệp Cà Ná.
Bộ Xây dựng cũng đề nghị UBND tỉnh Ninh Thuận bổ sung các yêu cầu, nguyên tắc bố trí đối với nhà và công trình trong từng lô đất đảm bảo phù hợp với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 06:2020/BXD về An toàn cháy cho nhà và công trình; bổ sung cây xanh cách ly quanh ô đất DHDV-2 để đảm bảo Quy chuẩn QCVN 01: 2021/BXD; bổ sung dự thảo Quyết định phê duyệt, dự thảo Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch được duyệt; làm rõ về nguồn nước cấp cho khu công nghiệp Cà Ná, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của Dự án.
Mặt khác, phương án quy hoạch hạ tầng kỹ thuật của QHPK KCN Cà Ná cần khớp nối đồng bộ, thống nhất với hệ thống hạ tầng kỹ thuật được xác định trong Quy hoạch chung 480 đã được phê duyệt và các quy hoạch xây dựng khác có liên quan, đảm bảo yêu cầu về bảo vệ môi trường và hiệu quả trong khai thác, vận hành sử dụng trong khu công nghiệp.
Quảng Trị: Lập Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng dự án trọng điểm
Theo UBND tỉnh Quảng Trị, các Dự án trọng điểm của địa phương đang triển khai, gồm: Cảng hàng không Quảng Trị, Khu bến cảng Mỹ Thủy, Đường ven biển kết nối Hành lang kinh tế Đông – Tây và phương án xây dựng trụ sở Tỉnh ủy và các cơ quan… đang còn vướng mắc và cần phải có phương án xử lý.
Đường trục dọc Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị đoạn qua địa bàn các xã vùng cát thuộc huyện Triệu Phong. ảnh Thanh Trúc |
Đây cũng chính là lý do mà Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị và Ban chỉ đạo các dự án động lực cấp tỉnh tổ chức cuộc họp để cho ý kiến các nội dung liên quan.
Tại cuộc họp, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị và Ban chỉ đạo các dự án động lực cấp tỉnh đã nghe báo cáo và cho ý kiến vào tình hình triển khai các dự án trọng điểm gồm: Cảng hàng không Quảng Trị, Khu Bến cảng Mỹ Thủy, đường ven biển kết nối hành lang kinh tế Đông – Tây và nghe báo cáo phương án xây dựng trụ sở Tỉnh ủy và các cơ quan…
Theo Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị Võ Văn Hưng, về tiến độ triển khai, những khó khăn, vướng mắc cụ thể của từng dự án, từng phần việc và những kiến nghị đối với Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban chỉ đạo dự án động lực tỉnh, các thành viên dự họp đã tham gia đóng góp nhiều ý kiến, trong đó có nhiều ý kiến đề xuất cần thành lập ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng cấp tỉnh để tháo gỡ những khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, nhất là về cơ chế, chính sách bởi đây là vấn đề khó khăn nhất trong quá trình triển khai các dự án…
Đối với cấp huyện, cần thành lập ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng cấp huyện do đồng chí Bí thư làm trưởng ban và yêu cầu cả hệ thống chính trị tham gia ngay từ đầu vào công tác giải phóng mặt bằng.
UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban ngành liên quan khảo sát giá thị trường để điều chỉnh giá đền bù cho phù hợp; Chỉ đạo sở Tài nguyên Môi trường; Xây dựng xây dựng quy trình giải phóng mặt bằng để thống nhất trong toàn tỉnh…, ông Hưng cho hay.
Sau khi nghe báo cáo và đã cho ý kiến triển khai thực hiện các dự án động lực của tỉnh, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị Lê Quang Tùng cho rằng, những dự án này đều có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, vì vậy Ban Thường vụ Tỉnh ủy thống nhất chủ trương thành lập Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng cấp tỉnh do UBND tỉnh chủ trì, ở cấp huyện do đồng chí Bí thư làm trưởng ban để đôn đốc, tháo gỡ những khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện để các dự án triển khai đảm bảo tiến độ đề ra.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị cũng thống nhất trình hội đồng thẩm định quốc gia phương án xây dựng sân bay Quảng Trị, đồng thời chuẩn bị tốt các điều kiện để khởi công vào quý I năm 2023.
“Về lâu dài, chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy là xây dựng cảng hàng không Quảng Trị có thể tiếp nhận máy bay hạng 4E, trở thành trung tâm bảo dưỡng, trung tâm vận chuyển hàng hóa, vì vậy UBND tỉnh cần tính toán phương án cụ thể để đảm bảo tầm nhìn chiến lược lâu dài”, ông Tùng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị cũng phân tích, Cảng biển nước sâu Mỹ Thủy là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư và triển khai một số dự án động lực trong khu kinh tế Đông Nam, đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện; Còn với dự án Đường ven biển kết nối Hành lang kinh tế Đông – Tây, cần tính toán quy hoạch quỹ đất ở các địa phương liên quan để có hướng phát triển lâu dài…
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị cũng đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành tiến hành khảo sát lại giá thị trường để điều chỉnh khung giá đất bồi thường cho người dân phù hợp, xây dựng quy trình giải phóng mặt bằng chung toàn tỉnh để các địa phương áp dụng thực hiện.
Các sở, ngành cần tập trung để xử lý vướng mắc liên quan đến các thủ tục triển khai thực hiện dự án… Đồng thời bắt buộc nhà đầu tư phải ký cam kết tiến độ thực hiện để có cơ sở xử lý khi không thực hiện đúng cam kết.
Quảng Ngãi đầu tư đường vào Khu di tích Văn hóa Sa Huỳnh
Dự án Đường du lịch vào khu di tích Văn hóa Sa Huỳnh nằm trên địa bàn xã Phổ Khánh và phường Phổ Thạnh (thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi làm chủ đầu tư.
Quảng Ngãi đầu tư gần 50 tỷ thực hiện Dự án Đường du lịch vào khu di tích Văn hóa Sa Huỳnh. Ảnh: Hà Nghiêm |
Dự án này có mức đầu tư gần 50 tỷ đồng, thời gian thực hiện từ năm 2020 – 2022, gồm các hạng mục tuyến đường chính, vỉa hè, cây xanh, điện chiếu sáng. Mục đích nhằm kết nối hệ thống hạ tầng giao thông đồng bộ nối Quốc lộ 1A đến khu di chỉ văn hóa Sa Huỳnh.
Bên cạnh đó, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến tham quan, nghiên cứu và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch địa phương, trong đó có làng du lịch cộng đồng Gò Cỏ.
Đơn vị chủ đầu tư cho hay, hiện chỉ còn 3 trường hợp chưa hoàn thành giải phóng mặt bằng do còn vướng mắc về bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Theo Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Đặng Văn Minh, Dự án Đường du lịch vào khu di tích Văn hóa Sa Huỳnh là công trình vừa phục vụ giao thông đi lại, vừa phục vụ phát triển du lịch nên yêu cầu phải đảm bảo thẩm mỹ và chất lượng.
Ông Đặng Văn Minh yêu cầu Chủ tịch UBND thị xã Đức Phổ chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương giải phóng mặt bằng đối với đoạn cuối tuyến đường này để kết thúc dự án trong năm 2022.
“Phía UBND thị xã Đức Phổ cần thực hiện kiểm kê, áp giá bồi thường, vừa đảm bảo quyền lợi người dân vừa đúng chính sách bồi thường Nhà nước, không có ngoại lệ. Dù vậy, quan điểm vẫn là giải thích người dân về chính sách pháp luật tạo sự đồng thuận, trường hợp người dân không chấp hành mới tổ chức cưỡng chế” – ông Đặng Văn Minh nói.
Dự án đường du lịch vào khu di tích Văn hóa Sa Huỳnh là một trong số nhiều dự án đa mục tiêu, vừa phục vụ giao thông, vừa tạo điều kiện khai thác lợi thế các di tích, danh lam thắng cảnh… để phát triển du lịch ở Quảng Ngãi.
Nghệ An khởi công nhà máy sản xuất linh kiện điện tử, phụ tùng ô tô 200 triệu USD
Ngày 22/9, UBND tỉnh Nghệ An phối hợp cùng với nhà đầu tư tiến hành khởi công Dự ánđầu tư xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện sản phẩm điện tử và phụ tùng ô tô Ju Teng do nhà đầu tư EXCEL SMART GLOBAL LIMITED (thuộc Tập đoàn Quốc tế Ju Teng, Đài Loan) đầu tư.
Phối cảnh Nhà máy sản xuất linh kiện sản phẩm điện tử và phụ tùng ô tô Ju Teng của Công ty TNHH Công nghệ điện tử Ju Teng Việt Nam sẽ triển khai tại Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An. |
Dự án nhà máy sản xuất linh kiện sản phẩm điện tử và phụ tùng ô tô Ju Teng tại Khu công nghiệp Hoàng Mai I được Ban Quản lý Khu kinh tế Đông Nam cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ngày 30/12/2021, với quy mô diện tích hơn 120 ha đất. Sau gần 9 tháng kể từ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Tập đoàn Quốc tế Ju Teng đã hoàn thành các thủ tục theo đúng quy định và tổ chức khởi công xây dựng dự án.
Đây là dự án chuyên sản xuất linh kiện điện tử máy vi tính, thiết bị ngoại vi của máy vi tính và phụ tùng, bộ phận phụ trợ cho xe ô tô, với tổng mức đầu tư giai đoạn I là 200 triệu USD, sử dụng khoảng 6.000 – 9.000 lao động và là một trong những dự án trọng điểm mà tỉnh Nghệ An mời gọi đầu tư.
Ông Trịnh Lập Dục, Chủ tịch Tập đoàn Quốc Tế Ju Teng cho rằng, đây là dự án mà Tập đoàn đã lựa chọn để đầu tư sau khi khảo sát tại 10 Khu công nghiệp trên địa bàn cả nước, và đã quyết định đầu tư tại Khu công nghiệp Hoàng Mai I (tỉnh Nghệ An) bởi đã nhận được sự tiếp đón nhiệt tình, chân thành, chu đáo của lãnh đạo tỉnh, cũng như nhận thấy tiềm năng, lợi thế của Nghệ An.
Chủ tịch Tập đoàn Quốc Tế Ju Teng cam kết vào tháng 6/2023, nhà máy sẽ đi vào hoạt động. Nhà máy sẽ vận hành trên công nghệ sản xuất mới nhất trong 20 năm qua, trở thành cơ sở sản xuất vỏ máy hiện đại trên thế giới.
Theo lãnh đạo UBND tỉnh Nghệ An, việc Tập đoàn Quốc tế Ju Teng khởi công dự án tại Khu công nghiệp Hoàng Mai I một lần nữa cho thấy, tiềm năng, thế mạnh và những cơ hội đầu tư vào Nghệ An đã có sức hấp dẫn, có sức lan tỏa lớn trong thu hút đầu tư.
Đặc biệt, sự kiện khởi công xây dựng dự án tiếp tục minh chứng cho quyết tâm chính trị và nỗ lực cao nhất của tỉnh Nghệ An; chứng minh cho cam kết cao nhất của lãnh đạo tỉnh Nghệ An đối với các nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư Ju Teng nói riêng.
Tỉnh Nghệ An trân trọng ghi nhận và đánh giá cao Tập đoàn Quốc tế Ju Teng và cá nhân ngài Trịnh Lập Dục – Chủ tịch Tập đoàn đã triển khai thực hiện dự án đảm bảo theo đúng cam kết; dành tình cảm đặc biệt lựa chọn tỉnh Nghệ An nói chung cũng như thị xã Hoàng Mai nói riêng là điểm đến đầu tư và giới thiệu thêm các nhà cung ứng, đối tác đến với tỉnh Nghệ An.
Lãnh đạo tỉnh này cũng cho rằng, khi dự án Ju Teng và các dự án phụ trợ đi vào hoạt động sẽ hình thành một chuỗi cung ứng hiệu quả, tạo bước chuyển để các doanh nghiệptại Nghệ An có cơ hội tham gia xây dựng chuỗi cung ứng khép kín và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Đề xuất tách tuyến Hữu Nghị – Chi Lăng khỏi cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn
Theo thông tin của Báo điện tử Đầu tư – Baodautu.vn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa có công văn gửi Văn phòng Chính phủ liên quan đến việc hoàn thiện thủ tục triển khai Dự án thành phần 2, đoạn Hữu Nghị – Chi Lăng thuộc Dự án BOT cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn.
Do gặp khó khăn trong việc thu xếp nguồn vốn tín dụng nên suốt hơn 4 năm qua, Dự án thành phần 2 vẫn chưa thể triển khai trên thực địa đã tạo nên sự “đứt gẫy” đáng tiếc trong việc kết nối đoạn tuyến cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn với cửa khẩu Hữu Nghị – Lạng Sơn. |
Tại công văn số 6676/BKHĐT – KCHTĐT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trước đây, hai dự án thành phần thuộc Dự án là các dự án độc lập.
Sau khi đoạn Hữu Nghị – Chi Lăng được bổ sung vào Dự án theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, về nguyên tắc cần được thực hiện theo hướng tạo thành một dự án PPP thống nhất về phương án tài chính. Cùng với việc lệch pha về tiến độ bởi đoạn cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn được đưa vào khai thác từ đầu năm 2020 trong khi đoạn Hữu Nghị – Chi Lăng thi công dang dở, dừng thi công từ năm 2019, hai dự án thành phần này đang có phương án tài chính (chỉ tiêu tài chính, thời gian khai thác vận hành khai, thu hồi vốn…) hoàn toàn độc lập với nhau.
Theo báo cáo của UBND tỉnh Lạng Sơn, Dự án thành phần 2 đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt hỗ trợ từ ngân sách trung ương 2.500 tỷ đồng và ngân sách địa phương là 1.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, hiện pháp luật về đầu tư theo phương thức PPP không quy định về thẩm quyền cho phép nhà đầu tư đang thực hiện dự án PPP không sử dụng vốn nhà nước được tiếp tục thực hiện dự án PPP khi một phần vốn tư nhân (vốn chủ sở hữu và vốn vay) được thay thế bằng vốn nhà nước.
Do đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, để tiếp tục triển khai thực hiện Dự án thành phần 2 cần xem xét việc tách Dự án thành phần 2 ra khỏi Dự án BOT cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn để giải quyết độc lập và tổ chức lựa chọn lại nhà đầu tư theo quy định pháp luật để thúc đẩy tiến độ thực hiện, sớm hoàn thành đồng bộ toàn tuyến.
Về căn cứ pháp lý, theo khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Xây dựng quy định dự án đầu tư xây dựng được phân chia thành các dự án thành phần khi mỗi dự án thành phần có thể vận hành, khai thác độc lập. Các dự án thành phần sau khi phân chia được quản lý như đối với dự án độc lập.
“Do Dự án thành phần 2 được Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương đầu tư, do đó chủ trương tách dự án thành phần 2 ra khỏi dự án đầu tư xây dựng cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn cần được sự chấp thuận của Thủ tướng”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nêu quan điểm.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trường hợp được Thủ tướng chấp thuận cho phép tách Dự án thành phần 2 thành dự án độc lập thì Dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc đoạn Hữu Nghị – Chi Lăng thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ GTVT.
“Vì vậy, việc xem xét giao UBND tỉnh Lạng Sơn tiếp tục là cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với Dự án thành phần 2 cần có ý kiến của Bộ GTVT theo quy định”, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và đầu tư cho biết.
Về việc giao UBND tỉnh Lạng Sơn và các nhà đầu tư, doanh nghiệp đang được giao làm chủ đầu tư dự án của dự án thành phần 2 hoàn thiện các thủ tục chấm dứt phụ lục hợp đồng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, việc thực hiện thủ tục chấm dứt hợp đồng, phụ lục hợp đồng, tổ chức lựa chọn lại nhà đầu tư đoạn cao tốc Hữu Nghị – Chi Lăng cần phải thực hiện theo quy định của nội dung hợp đồng, phụ lục hợp đồng, pháp luật về đầu tư theo phương thức PPP và pháp luật khác có liên quan.
“Đề nghị UBND tỉnh Lạng Sơn chịu trách nhiệm phối hợp với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án giải quyết khối lượng công việc đã thực hiện theo quy định pháp luật, đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước và nhà đầu tư, tránh xảy ra tranh chấp, khiếu kiện”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư khuyến nghị.
Trước đó, vào tháng 8/2022, UBND tỉnh Lạng Sơn đã có công văn số 920/UBND – KT gửi Thủ tướng Chính phủ về việc hoàn thiện thủ tục triển khai Dự án thành phần 2, đoạn Hữu Nghị – Chi Lăng thuộc Dự án BOT xây dựng đường cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn.
Tại công văn này, UBND tỉnh Lạng Sơn kiến nghị Thủ tướng cho phép tách Dự án thành phần 2, đoạn Hữu Nghị – Chi Lăng dài 43 km có mục tiêu kết nối cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn với cửa khẩu Hữu Nghị ra khỏi Dự án BOT xây dựng đường cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn thành dự án độc lập để triển khai thực hiện theo quy định hiện hành và giao UBND tỉnh Lạng Sơn là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để tổ chức thực hiện dự án sau khi tách.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Lạng Sơn kiến nghị người đứng đầu Chính phủ cho phép tỉnh này và các nhà đầu tư, Doanh nghiệp dự án của Dự án thành phần 2 hoàn thiện các thủ tục chấm dứt phụ lục hợp đồng.
Để đảm bảo tính khả thi tài chính, vào tháng 6/2021, UBND tỉnh Lạng Sơn đã kiến nghị cấp có thẩm quyền cho phép triển khai Dự án thành phần 2 theo quy định của Điều 70 luật đầu tư PPP, với tổng mức đầu tư là 7.609 tỷ đồng gồm vốn nhà nước 3.500 tỷ đồng; vốn nhà đầu tư 4.109 tỷ đồng thay vì nhà đầu tư phải bỏ 100% vốn.
“Hiện Chính phủ đã phê duyệt hỗ trợ từ ngân sách nhà nước trong kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021 – 2025 cho Dự án thành phần 2, trong đó, vốn ngân sách Trung ương 2.500 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương 1.000 tỷ đồng; đồng thời đã có một số ngân hàng cam kết tài trợ vốn, đảm bảo tính khả thi cho phương án tài chính của dự án”, ông Hồ Tiến Thiệu, Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn cho biết.
TP.HCM đề xuất chi gần 500 tỷ đồng để hoàn thiện dự án BOT dở dang
Sở Giao thông – Vận tải TP.HCM vừa có văn bản khẩn gửi HĐND TP.HCM đề xuất thông qua chủ trương bố trí hơn 491 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách để chuyển đổi hình thức đầu tư cầu Tân Kỳ – Tân Quý (quận Bình Tân) từ hình thức đầu tư BOT sang hình thức đầu tư công.
Nếu được thông qua, Dự án sẽ giải phóng mặt bằng và thi công các hạng mục còn lại trong hai năm tới để khai thác vào năm 2025.
Theo Sở Giao thông – Vận tải TP.HCM, việc sớm hoàn thành dự án sẽ giúp người dân đi lại thuận tiện hơn vì hiện nay cây cầu sắt bắc tạm bên cạnh rất nhỏ hẹp, không đáp ứng được nhu cầu đi lại.
Dự án cầu Tân Kỳ – Tân Quý được xây dựng theo hình thức BOT (xây dựng – kinh doanh – chuyển giao), cầu có dài 82,9 m, rộng 16m dành cho 4 làn xe lưu thông, đường dẫn vào cầu có tổng chiều dài 224,8 m.
Dự án có tổng mức đầu tư 312 tỷ đồng, được khởi công vào quý 1/2018. Khi hoàn thành nhà đầu tư sẽ được thu phí tại trạm thu phí An Sương – An Lạc trên quốc lộ 1. Tuy nhiên, khi khối lượng xây lắp hoàn thành được 70% thì phải tạm dừng thi công từ tháng 12/2018 đến nay.
Nguyên nhân dự án phải tạm dừng thi công vì Kiểm toán Nhà nước khuyến cáo việc đầu tư dự án BOT cầu Tân Kỳ – Tân Quý để thu phí trên quốc lộ 1 là không phù hợp với lợi ích của người sử dụng.
Hơn nữa, theo Nghị quyết số 437/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, dự án đường bộ đầu tư hình thức BOT chỉ áp dụng cho các tuyến đường xây mới.
Mặc dù quy mô cây cầu không quá lớn nhưng từ năm 2018 đến nay dự án vẫn chưa được TP.HCM bố trí vốn để hoàn thiện đưa vào sử dụng.
Đắk Lắk xây dựng kế hoạch chi tiết Dự án cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột
UBND tỉnh Đắk Lắk vừa ban hành Kế hoạch số 179/KH-UBND ngày 15/9/2022 triển khai Nghị quyết của Quốc hội khóa XV và Nghị quyết của Chính phủ về chủ trương đầu tưDự án đường bộ cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột, giai đoạn 1.
Dự án đường bộ cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột sẽ được khởi công trong năm 2023. |
Theo kế hoạch này, tỉnh Đắk Lắk sẽ tổ chức, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường cho dự án thành phần được phân cấp, hoàn thành trước ngày 12/11/2022 gửi Bộ Tài nguyên – Môi trường thẩm định, phê duyệt.
Đồng thời tổ chức lập, thẩm tra, thẩm định, quyết định phê duyệt dự án thành phần được phân cấp, hoàn thành trước ngày 20/1/2023 và thực hiện các công việc tiếp theo bảo đảm khởi công trước ngày 30/6/2023.
Tỉnh Đắk Lắk đặt mục tiêu phấn đấu bàn giao 70% diện tích mặt bằng của các gói thầu xây lắp khởi công trước ngày 30/6/2023 và cơ bản bàn giao diện tích còn lại trước ngày 31/12/2023. Hoàn thành một số đoạn tuyến có lưu lượng giao thông lớn trong năm 2025, cơ bản hoàn thành toàn tuyến năm 2026 và hoàn thành đưa vào khai thác đồng bộ toàn dự án năm 2027.
UBND tỉnh giao chủ đầu tư dự án là Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông và nông nghiệp phát triển nông thôn Tỉnh xây dựng kế hoạch cụ thể chi tiết thực hiện bảo đảm hoàn thành các mốc tiến độ theo yêu cầu của các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ.
Thực hiện lựa chọn nhà thầu tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát… triển khai đồng thời các công việc liên quan đến công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư, lập, trình thẩm định, phê duyệt dự án.
Ngoài ra, các địa phương có dự án đi qua thành lập Ban Chỉ đạo về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để đảm bảo tiến độ giải phóng mặt bằng cho dự án…
Trước đó, Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông và nông nghiệp phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk đã lập Kế hoạch chi tiết triển khai dự án thành phần 3 thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột giai đoạn 1.
Cụ thể, các mốc thời gian hoàn thiện các công tác chủ đạo như sau: Phê duyệt dự án thành phần 3 trước ngày 20/1/2023, xây dựng kế hoạch hoàn thiện phê duyệt dự án vào ngày 29/11/2022; xây dựng kế hoạch hoàn thiện đánh giá tác động môi trường vào ngày 27/10/2022 và phê duyệt vào ngày 21/11/2022; triển khai công tác cắm mốc giải phóng mặt bằng (GPMB) từ ngày 25/9/2022 và hoàn thành cắm mốc ngày 24/12/2022. Công tác bàn giao tiến hành song song công tác cắm mốc, thời gian bắt đầu từ ngày 9/11/2022, đến ngày 3/1/2023 hoàn thành việc bàn giao mốc GPMB dự án…
Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường bộ cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột đã được Bộ GTVT trình Thủ tướng tổ chức thẩm định để trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư, dự án có điểm đầu tại nút giao giữa QL26B và QL1, khu vực cảng Nam Vân Phong, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa); điểm cuối giao cắt với đường Hồ Chí Minh tránh phía Đông TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk).
Theo quy hoạch, cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột có quy mô 4 làn xe, chiều dài khoảng 117,5 km; trong đó, đoạn qua Khánh Hòa khoảng 32,7 km, qua tỉnh Đắk Lắk khoảng 84,8 km. Toàn tuyến dự kiến xây dựng 49 cầu trên tuyến chính, 7 cầu vượt ngang và 3 hầm, gồm: Hầm Phượng Hoàng dài khoảng 2.100 m, hầm Ea Trang khoảng 700 m và hầm Chư Te khoảng 700 m. Dự án được đề xuất sử dụng ngân sách nhà nước, tổng mức đầu tư khoảng 21.935 tỷ đồng; dự kiến khởi công năm 2023 và hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng năm 2026.
Lâm Đồng phê duyệt 2 dự án điện gió có tổng vốn đầu tư trên 2.000 tỷ đồng
UBND tỉnh Lâm Đồng vừa phê duyệt chủ trương đầu tư và chấp thuận nhà đầu tư Dự án Nhà máy điện gió Xuân Trường 1 và Xuân Trường 2; địa điểm thực hiện dự án tại xã Xuân Trường, TP. Đà Lạt
Cụ thể, Dự án Nhà máy điện gió Xuân Trường 1 do Công ty cổ phần Năng lượng gió Xuân Trường (trụ sở tại thị trấn D’ran, huyện Đơn Dương) làm chủ đầu tư; tổng diện đất sử dụng 32,5 ha (trong đó diện tích đất tạm thời là 15 ha); tổng vốn đầu tư dự kiến hơn 2.212 tỷ đồng.
Dự án Nhà máy điện gió Xuân Trường 1 có công suất 50 MW; quy mô xây dựng 12 tuabin gió gồm 10 tuabin (công suất 4,2 MW) và 2 tuabin (công suất 4 MW); điện lượng bình quân 180 GWh/ năm.
Trong khi đó, Dự án Nhà máy điện gió Xuân Trường 2 do Công ty cổ phần Năng lượng gió Cao Nguyên (trụ sở tại xã Trạm Hành, TP. Đà Lạt) làm chủ đầu tư; tổng diện tích đất dự kiến sử dụng là 31,2 ha (diện tích đất tạm thời là 14,4 ha); dự án có tổng vốn đầu tư dự kiến hơn 2.186 tỷ đồng.
Dự án Nhà máy điện gió Xuân Trường 2 có công suất 48 MW với quy mô 12 tuabin gió công suất 4 MW; điện lượng bình quân 170 GWh/ năm.
2 dự án trên đều có thời gian hoạt động trong vòng 50 năm kể từ ngày quyết định chủ trương đầu tư (19/9/2022); thời gian thực hiện hiệu chỉnh tuabin, thử nghiệm, nghiệm thu và vận hành của dự án là từ quý I/2025 – quý II/2025.
UBND tỉnh Lâm Đồng yêu cầu chủ đầu tư hoàn thành đầy đủ các thủ tục về đất đai, xây dựng, môi trường và các thủ tục khác có liên quan theo đúng quy định hiện hành trước khi triển khai thực hiện dự án.
Giao kế hoạch đầu tư vốn của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội
Phó thủ tướng Lê Minh Khái ký Quyết định số 1113/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội (Chương trình).
Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ giao 147.138 tỷ đồng kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương của Chương trình cho từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương theo tổng mức và cơ cấu ngành, lĩnh vực quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội.
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ giao danh mục và mức vốn ngân sách trung ương bố trí kế hoạch vốn của Chương trình cho từng nhiệm vụ, Dự án đã đủ thủ tục đầu tư theo quy định, đủ điều kiện giao kế hoạch vốn của Chương trình.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan trung ương và các địa phương căn cứ kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương của Chương trình, danh mục nhiệm vụ, dự án và mức vốn ngân sách trung ương bố trí cho từng nhiệm vụ, dự án được giao:
Thông báo hoặc quyết định giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương cho các cơ quan, đơn vị sử dụng vốn đầu tư công chi tiết danh mục nhiệm vụ, dự án và mức vốn ngân sách trung ương bố trí cho từng nhiệm vụ, dự án, bảo đảm theo đúng quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và các quy định pháp luật có liên quan.
Khẩn trương phê duyệt quyết định đầu tư dự án theo quy định để bảo đảm đủ điều kiện giao kế hoạch vốn năm 2022, năm 2023; chịu trách nhiệm giải ngân toàn bộ số vốn được giao từ Chương trình trong 02 năm 2022, 2023 theo quy định.
Bảo đảm cân đối đủ vốn cho dự án để hoàn thành đúng tiến độ, phát huy hiệu quả đầu tư. Đối với các dự án có tổng mức đầu tư cao hơn mức vốn ngân sách trung ương bố trí từ Chương trình, các địa phương phải có trách nhiệm bố trí đủ vốn ngân sách địa phương trong giai đoạn 2021 – 2025 cho dự án, không để xảy ra nợ đọng xây dựng cơ bản và chậm tiến độ do thiếu vốn. Trong trường hợp điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư của dự án so với tổng mức đầu tư đã được cấp có thẩm quyền giao vốn từ Chương trình, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương chủ động bố trí số vốn còn thiếu từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn hợp pháp khác do cấp mình quản lý để hoàn thành dự án trong giai đoạn 2022 – 2025.
Chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và cơ quan liên quan về tính chính xác của các nội dung, số liệu báo cáo, danh mục nhiệm vụ, dự án và mức vốn bố trí cho từng nhiệm vụ, dự án, thủ tục đầu tư bảo đảm đúng quy định của pháp luật; tiến độ hoàn thiện thủ tục đầu tư các dự án; bảo đảm đủ các điều kiện để triển khai dự án theo tiến độ đề ra.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ: y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động – Thương binh và Xã hội, Giao thông vận tải căn cứ nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 11/NQ-CP có trách nhiệm đôn đốc các bộ, địa phương liên quan phân bổ và quản lý sử dụng vốn của Chương trình đúng mục đích, đúng đối tượng, hiệu quả đầu tư và tuân thủ đúng quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và pháp luật có liên quan.
Các Bộ: Y tế, Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hơp với các bộ, địa phương liên quan rà soát, đề xuất phương án phân bổ số vốn còn lại của Chương trình thuộc lĩnh vực y tế, an sinh xã hội, lao động việc làm, bảo đảm theo đúng quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính tiếp tục rà soát, tổng hợp các dự án hoàn thiện thủ tục đầu tư, đủ điều kiện giao vốn còn lại của Chương trình, báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ trong tháng 9 năm 2022 để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo đúng quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội
Các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao về quản lý nhà nước đối với đầu tư công chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và cơ quan liên quan về tính chính xác của các nội dung, số liệu báo cáo, bảo đảm đúng quy định của pháp luật và trên cơ sở đề xuất của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương.
Vingroup đầu tư thêm nhà máy Pin Lithium hơn 6.329 tỷ đồng tại Vũng Áng
Ngày 23/9, Ban quản lý Khu kinh tế Hà Tĩnh cho biết, ông Lê Trung Phước, Trưởng Ban quản lý Khu kinh tế tỉnh này vừa ký Quyết định (số 90/QĐ-KKT), chấp thuận chủ trương đầu tư, đồng thời chấp thuận nhà đầu tư cho Dự án Nhà máy sản xuất Pin Lithium do Công ty cổ phần Giải pháp năng lượng VINES (thuộc Tập đoàn Vingroup) làm chủ đầu tư.
Dự án Nhà máy sản xuất Pin thứ 2 của Tập đoàn Vingroup hơn 6.300 tỷ đồng tiếp tục được đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh. |
Theo đó, Dự án Nhà máy sản xuất Pin Lithium sẽ được thực hiện trên diện tích dự kiến hơn 14 ha thuộc Quy hoạch phân khu xây dựng Khu công nghiệp Trung tâm lô CN4, CN5, Khu kinh tế Vũng Áng.
Tổng mức đầu tư cho Dự án là hơn 6.329 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn của chủ đầu tư là hơn 2.405 tỷ đồng (tỷ lệ góp vốn 38%), nguồn vốn huy động là hơn 3.924 tỷ đồng (chiếm 62%).
Công suất thiết kế của nhà máy là 5GWh/năm, tương đương khoảng 30.000.000 cell pin sạc LFP (năng lượng: 166,4 Wh/cell pin) mỗi năm; sản phẩm, dịch vụ cung cấp là cell pin sạc LFP (Lithium Iron Phosphate) sử dụng chủ yếu cho pin xe ô tô điện và hệ thống lưu trữ điện năng (ESS).
Dự kiến đến quý IV/2023, nhà máy sẽ hoàn thành phần xây dựng; đến quý I/2024 hoàn thành việc lắp đặt máy móc, dây chuyền sản xuất và bắt đầu vận hành hoạt động; đến quý III/2024 bước vào giai đoạn sản xuất đại trà.
Trước đó, vào tháng 12/2021, Tập đoàn Vingroup đã chính thức khởi công nhà máy sản xuất pin VinES tại Khu kinh tế Vũng Áng giai đoạn 1 với quy mô là 8 ha, tổng mức đầu tư 4.000 tỷ đồng.
Dự án nhà máy sản xuất pin VinES sẽ cung cấp pin Lithium dành cho các dòng xe ô tô điện và bus điện của VinFast.
Toàn bộ hạ tầng của nhà máy gồm các phân xưởng đúc linh kiện, hàn tổ hợp và đóng gói sẽ được xây dựng nhằm đảm bảo công suất 100.000 pack pin/năm.
Và Nhà máy sản xuất Pin Lithium là Dự án pin thứ hai của Vingroup ở khu kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh).
Chính phủ phê duyệt chủ trương thành lập Trường Đại học Khoa học Sức khoẻ
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam vừa ký Quyết định số 1122/QĐ-TTg ngày 23/9/2022 phê duyệt chủ trương thành lập Trường Đại học Khoa học Sức khoẻ là trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Phó Thủ tướng giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tổ chức thẩm định Hồ sơ và thẩm định thực tế Đề án thành lập Trường Đại học Khoa học Sức khoẻ là trường đại học thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định của pháp luật về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và các quy định pháp luật có liên quan, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Mô hình đại học với các trường thành viên đã có ở Việt Nam, như Đại học Quốc gia (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh), Đại học vùng (Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng).
Mô hình này đã được khẳng định trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học. Đối với lĩnh vực khoa học sức khỏe, cũng đã có một số mô hình như Đại học Khoa học Sức khỏe Lào, Đại học California San Francisco.
Gần 20 năm trước, chủ trương thành lập Đại học Khoa học sức khỏe ở Việt Nam đã được đề cập. Về bản chất, đây là mô hình đại học trong đó có các trường thành viên chuyên ngành là Trường Đại học Y, Trường Đại học Dược, Trường Đại học Điều dưỡng, Trường Đại học y tế công cộng…
Mô hình này sẽ tạo quyền tự chủ học thuật cho các trường thành viên theo từng chuyên ngành, phát huy tối đa và hiệu quả thông qua sự chia sẻ nguồn lực chung như Bộ máy quản lí, điều phối, đầu tư cho các bộ môn cơ bản, cơ sở thuộc khối khoa học y sinh, sự phối hợp nghiên cứu và đào tạo liên ngành.
Trường Đại học Khoa học Sức khỏe sẽ là một trong những cơ sở đào tạo khối ngành Sức khoẻ trọng điểm của khu vực phía Nam trong tình hình đang thiếu hụt nhân lực cho ngành Y tế như hiện nay.
Trước đó, ngày 27/10/2020, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định số 1666/QĐ-TTg về việc thành lập Trường Đại học Y Dược thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội trên cơ sở nâng cấp và phát triển Khoa Y Dược.
5 giải pháp thúc đẩy dòng vốn FDI giữa các nước Tiểu vùng Mekong
Nhân 30 năm thực hiện Chương trình Hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc tiểu vùng Mekong mở rộng, chiều 23/9, Hội Phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN (VASEAN) tổ chức Diễn đàn Mekong lần thứ X với chủ đề “Đẩy mạnh hợp tác phát triển, phục hồi kinh tế hậu Covid-19 khu vực Mekong”.
Đây là hoạt động thường niên do Hội Phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN (VASEAN) tổ chức với sự ủng hộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Phát biểu tại Diễn đàn, PGS-TS. Bùi Tất Thắng, Phó chủ tịch, Tổng Thư ký Hội VASEAN cho biết, Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) gồm Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan và 2 tỉnh Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc), là khu vực kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng phát triển, tài nguyên khoáng sản phong phú.
Với sông Mekong dài hơn 4.800 km và vùng lưu vực rộng lớn, khu vực GMS có thế mạnh đặc biệt về sản xuất nông nghiệp, đóng vai trò là vựa lúa lớn nhất của thế giới. Năm 1992 với sáng kiến và sự hỗ trợ của ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), 6 nước đã tham gia Chương trình Hợp tác kinh tế tiểu vùng Mekong mở rộng, nhằm thúc đẩy kết nối và hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và phát triển thế mạnh của vùng.
Trong hơn 2 năm Covid-19 hoành hành vừa qua, nhiều nước trong tiểu vùng GMS đã phải đóng cửa biên giới, sản xuất kinh doanh trì trệ. Các lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều nhất là nông nghiệp, du lịch, thương mại. Tuy nhiên, hợp tác GMS vẫn đạt được những kết quả tích cực trong giai đoạn khó khăn này.
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 8/2022, Việt Nam đã đầu tư vào 4 nước Tiểu vùng Mekong gồm Lào, Campuchia, Myanmar và Thái Lan 549 Dự án (còn hiệu lực) với tổng vốn đăng ký 8,53 tỷ USD, chiếm tới 87% tổng vốn đầu tư của Việt Nam vào các nước ASEAN. Trong số đó, có 237 dự án đầu tư vào Lào với tổng vốn đăng ký gần 4 tỷ USD, 197 dự án vào Campuchia với tổng vốn đăng ký 3,2 tỷ USD, 109 dự án vào Myanmar với vốn đăng ký gần 1,3 tỷ USD, 16 dự án vào Thái Lan với vốn đăng ký 29 triệu USD.
Đầu tư của Việt Nam vào các nước Tiểu vùng Mekong tập trung chủ yếu trong các lĩnh vực khai khoáng, nông lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, tài chínhngân hàng và bảo hiểm, bất động sản, bán buôn và bán lẻ…
Ở chiều ngược lại, tính đến tháng 9/2022, 4 nước Tiểu vùng Mekong đã đầu tư vào Việt Nam 707 dự án với tổng đầu tư 13,23 tỷ USD. Trong đó, Thái Lan là nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với 668 dự án có tổng vốn đăng ký 13,1 tỷ USD.
Đầu tư của các nước Tiểu vùng Mekong vào Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như công nghiệp chế biến – chế tạo, sản xuất phân phối điện, khí, nước, kinh doanh bất động sản, bán buôn và bán lẻ, nông lâm nghiệp và thủy sản dịch vụ lưu trú và ăn uống…
Theo TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE), đầu tư trực tiếp nội bộ giữa các nước Tiểu vùng Mekong còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Mặc dù dòng vốn FDI toàn cầu đã có xu hướng phục hồi từ năm 2021, song bên cạnh một số yếu tố thuận lợi, đầu tư trực tiếp nội bộ giữa các nước Tiểu vùng Mekong đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn.
Nêu lên một số giải pháp chính yếu để gia tăng quy mô và tốc độ di chuyển FDI nội bộ Tiểu vùng Mekong, TS. Nguyễn Anh Tuấn cho rằng, thứ nhất, chính phủ và doanh nghiệp các nước cần nhận thức đầy đủ hơn về vai trò FDI đối với việc thúc đẩy hợp tác kinh tế Tiểu vùng, qua đó tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi và có chính sách hỗ trợ đầu tư lẫn nhau giữa các nước trong khu vực; thúc đẩy và đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào việc xây dựng cộng đồng ASEAN đầy đủ năm 2025.
Thứ hai, nâng cao khả năng chống chọi của nền kinh tế các nước trong khu vực trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài nhằm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, khắc phục tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng và thiếu hụt lao động chất lượng cao hiện đang diễn ra tại một số nước.
Thứ ba, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, nhất là môi trường pháp lý, minh bạch và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư.
Thứ tư, tranh thủ sự hỗ trợ của các nước và tổ chức quốc tế trong việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là kết nối giao thông nội vùng, đảm bảo an ninh năng lượng gắn với chuyển đổi sang năng lượng sạch, hỗ trợ tăng cường năng lực cho tăng trưởng xanh, áp dụng kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, chống biến đổi khí hậu,…
Thứ năm, tăng cường trao đổi, cập nhật thông tin về chính sách thu hút đầu tư, tiềm năng và cơ hội đầu tư của các nước trong Tiểu vùng, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước tiếp cận thông tin và có sự hướng dẫn cần thiết về hợp tác đầu tư trong khu vực.
Khởi công đoạn đầu tiên đường Vành đai 3, TP.HCM, tạo động lực tăng trưởng mới
Sáng 24/9, tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) đã khởi công Dự án thành phần 1A, đoạn Tân Vạn – Nhơn Trạch thuộc đường Vành đai 3, TP.HCM giai đoạn 1.
Dự án thành phần 1A, đoạn Tân Vạn – Nhơn Trạch (giai đoạn 1) thuộc đường Vành đai 3, TP.HCM chiều dài 8,22 km, gồm 6,3 km qua địa bàn Đồng Nai và 1,92 km đi qua địa bàn TP.HCM. Điểm đầu của dự án giao với tỉnh lộ 25B thuộc địa phận huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai; điểm cuối giao với đường cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây thuộc TP.Thủ Đức,TP.HCM.
Hạng mục quan trọng nhất của Dự án thành phần 1A là cầu Nhơn Trạch dài 2,6 km, kết nối TP.HCM với Đồng Nai. Đây là cây cầu rất quan trọng tạo ra hướng kết nối mới giữa TP.HCM với vùng Đông Nam Bộ.
Toàn bộ Dự án thành phần 1A có tổng mức đầu tư 6.955 tỷ đồng, gồm vốn vay của Chính phủ Hàn Quốc thông qua Quỹ hợp tác phát triển kinh tế (EDCF) là 190,77 triệu USD (tương đương 4.175 tỷ đồng) và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam là 2.779 tỷ đồng.
Tại lễ khởi công, ông Trần Văn Thi, Giám đốc Ban Quản lý dự án Mỹ Thuận (thuộc Bộ GTVT) cho biết, dự án sẽ được thi công trong 3 năm.
Sau khi hoàn thành sẽ góp phần rút ngắn thời gian cũng như tạo điều kiện đi lại thuận lợi từ huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đến TP. HCM và Bình Dương, tăng cường tính kết nối các đô thị vệ tinh, mở rộng không gian phát triển công nghiệp, logistics.. cho các tỉnh, thành phố trong khu vực. Đặc biệt góp phần phân luồng từ xa và giảm ách tắc cho các tuyến đường nội đô TP.HCM.
Về dài hạn, đường vành đai 3 là tuyến đường kết nối đến Sân bay Long Thành theo hướng quốc lộ 51, giúp giảm tải cho cao tốc Long Thành- Dầu Giây, giúp giảm chi phí vận tải cho doanh nghiệp ở Khu công nghiệp Nhơn Trạch, Đồng Nai.
Sau khi biết cầu Nhơn Trạch được khởi công, ông Nguyễn Văn Điệp, Phó giám đốc Công ty VCAC, cho biết, mỗi tháng, doanh nghiệp chạy hàng trăm chuyến hàng chở container giữa TP.HCM với Đồng Nai. Hiện nay, do tình hình kẹt xe thường xuyên ở quốc lộ 51 nên hiệu suất quay đầu xe giảm một nửa. Doanh nghiệp còn phải chịu rất nhiều chi phí tiêu hao nhiên liệu khi kẹt xe quá nhiều.
Khi có cầu Nhơn Trạch sẽ tạo thêm hướng đi mới, khi đó xe có thể từ TP.Thủ Đức đi Đồng Nai sẽ gần hơn và không phải vòng qua cao tốc Long Thành – Dầu Giây hoặc quốc lộ 1 hướng cầu Đồng Nai.
Đánh giá về tầm quan trọng của Đường vành đai 3, TP.HCM, Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Anh Tuấn cho biết, vùng Đông Nam Bộ là trung tâm công nghiệp, cảng biển và logistics lớn nhất của cả nước đảm nhận 45% tổng khối lượng hàng hóa và trên 60% khối lượng hàng container thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam. Hiện nay, 70% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của khu vực Tây Nam Bộ đều thông qua cảng biển khu vực TP.HCM và cảng biển Vùng Đông Nam Bộ.
Tuy nhiên, hệ thống hạ tầng giao thông của TP.HCM nói riêng và khu vực Đông Nam Bộ nói chung đang đối mặt với tình trạng quá tải, thiếu kết nối đồng bộ.
Khi Dự án thành phần 1A của đường Vành đai 3, TP.HCM hoàn thành đưa vào khai thác sẽ góp phần nâng cao tính kết nối giữa TP.HCM và các tỉnh lân cận, kết nối các đô thị vệ tinh, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội cho vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ.
Lời hứa đưa 4 dự án thành phần cao tốc Bắc – Nam phía Đông về đích đúng tiến độ
Sau 2 tuần kể từ khi Bộ Giao thông – Vận tải (GTVT) phát động đợt thi đua nước rút 120 ngày đêm thông xe kỹ thuật, hiện đã có những cải thiện đáng kể trên công trường triển khai 4 Dự án thành phần thuộc Dự án Xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc phía Đông giai đoạn 2017 – 2020, gồm Mai Sơn – Quốc lộ 45, Cam Lộ – La Sơn, Vĩnh Hảo – Phan Thiết, Phan Thiết – Dầu Giây.
Có khá nhiều nội dung được các nhà thầu và đại diện ban quản lý dự án ký cam kết trong đợt thi đua nước rút 120 ngày đêm, nhưng tất cả đều hướng tới việc đưa 4 dự án thành phần cao tốc Bắc – Nam phía Đông nói trên về đích vào ngày 31/12/2022.
Cần phải nói thêm, ngày 31/12/2022 cũng là thời hạn hoàn thành phần lớn các gói thầu xây lắp mà các nhà thầu ký với đại diện Bộ GTVT. Về lý, các nhà thầu có trách nhiệm thực hiện theo đúng điều khoản hợp đồng, nhưng việc các công trường bị đóng băng trong thời gian đỉnh dịch Covid-19; tình trạng khan hiếm vật liệu đất đắp; giá cả nhiều loại vật liệu đầu vào tăng đột biến; điều kiện thời tiết bất lợi…, nên nếu không có sự hỗ trợ, động viên, khích lệ, thì tiến độ các dự án nói trên có thể lạc nhịp sâu hơn.
Trên thực tế, áp lực trong đợt nước rút 120 ngày đêm đối với các ban quản lý dự án, nhà thầu, đơn vị thi công là rất lớn, bởi tính đến cuối tháng 8/2022, tuyến Mai Sơn – Quốc lộ 45 mới đạt 69,5%; Phan Thiết – Dầu Giây đạt 55,72%; Vĩnh Hảo – Phan Thiết đạt 50,18% giá trị hợp đồng. Thời hạn 3 tháng để hoàn thành công việc bằng cả 2 năm trước đó đòi hỏi các chủ thể tại 4 dự án nói trên phải nỗ lực cao độ.
Chính vì vậy, bên cạnh việc kịp thời thay thế những đơn vị thi công yếu kém, để đợt nước rút có kết quả, Chính phủ, Bộ GTVT, các địa phương liên quan cũng cần sớm có sự hỗ trợ cần thiết, đặc biệt là trong việc đảm bảo đầy đủ nguồn cung ứng vật liệu, cần có cơ chế thanh toán nhanh, gọn kịp thời, đồng thời ban hành các thông báo giá sát thực tế.
Quan trọng hơn, các đơn vị thi công – những người sắm vai chính trong đợt thi đua nước rút này phải gạt bỏ tâm lý “đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành”, để làm vì thương hiệu của mình, vì danh dự, trọng trách với đất nước.
Ở chiều ngược lại, nếu không dấn lên để hoàn thành dứt điểm công trình trong khoảng 3 tháng tới, thì thiệt hại với các đơn vị thi công còn nặng nề hơn, bởi kéo dài thêm ngày nào sẽ càng phát sinh thêm chi phí tài chính do giá nhiên liệu, vật liệu còn diễn biến phức tạp. Thực tế, đã có không ít lãnh đạo các đơn vị thi công chấp nhận bù lỗ, huy động thêm nguồn lực tài chính để hoàn thành dứt điểm gói thầu.
Với các cơ quan quản lý, đợt thi đua nước rút này cũng chính là thước đo quan trọng nhất để xác định những đơn vị thi công, nhà đầu tư có năng lực thực sự, có ý thức trách nhiệm cao với đất nước để tiếp tục chọn chỉ định thầu tại Dự án Xây dựng cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021 – 2025 và các dự án hạ tầng trọng điểm khác.
Đây được coi là một trong những yếu tố quyết định việc hoàn thành mục tiêu xây dựng 5.000 km đường cao tốc vào năm 2030 được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra.
Tại cuộc đối thoại với doanh nghiệp mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh, các doanh nghiệp tham gia vào các công trình hạ tầng chiến lược cũng phải vào cuộc trên tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”, đồng lòng cùng cả nước vượt qua khó khăn chung trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, hơn lúc nào hết, các nhà thầu, đơn vị thi công phải thể hiện được bản lĩnh, năng lực và quyết tâm, trách nhiệm cao nhất để hoàn thành nhiệm vụ.
Đó còn là sự cụ thể hóa lời hứa của ngành GTVT trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thể hiện quyết tâm vượt khó, phát huy truyền thống đi trước mở đường, đồng thời tạo động lực để Dự án Xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc phía Đông giai đoạn 2017 – 2020 hoàn thành đúng tiến độ, góp phần đẩy nhanh tiến trình phục hồi, phát triển kinh tế đất nước.
Phê duyệt khung chính sách bồi thường, tái định cư dự án nâng cao tĩnh không cầu đường bộ
Ngày 23/9, Văn phòng Chính phủ có công văn 854/TTg-CN truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành về việc phê duyệt Khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án nâng cao tĩnh không các cầu đường bộ cắt qua tuyến đường thủy nội địa quốc gia – giai đoạn 1 (khu vực phía Nam).
Cụ thể, xét đề nghị của Bộ Giao thông vận tải, ý kiến thẩm tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt Khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án nâng cao tĩnh không các cầu đường bộ cắt qua tuyến đường thủy nội địa quốc gia – giai đoạn 1 (khu vực phía Nam), Phó thủ tướng Lê Văn Thành có ý kiến như sau: Phê duyệt Khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án nâng cao tĩnh không các cầu đường bộ cắt qua tuyến đường thủy nội địa quốc gia – giai đoạn 1 (khu vực phía Nam) như đề nghị của Bộ Giao thông vận tải và ý kiến thẩm tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Bộ Giao thông vận tải, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố Cần Thơ, Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Tiền Giang chịu trách nhiệm toàn diện về tính chính xác của thông tin và số liệu; chỉ đạo thực hiện Khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án được phê duyệt theo đúng quy định pháp luật.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phản hồi Phú Yên về chuyển đổi đất lúa làm sân golf
Phú Yên đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về sử dụng đất trồng lúa hiệu quả thấp để thực hiện Dự án Sân golf.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa có Công văn trả lời kiến nghị của cử tri Phú Yên liên quan về đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về sử dụng đất trồng lúa hiệu quả thấp để thực hiện Dự án Đầu tư xây dựng và kinh doanh sân golf.
Cụ thể, tại đợt tiếp xúc cử tri sau Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, cử tri tỉnh Phú Yên kiến nghị, hiện nay, tại khu vực đồng bằng trên địa bàn tỉnh Phú Yên có nhiều diện tích đất trồng lúa hiệu quả thấp, chỉ trồng được một vụ hoặc người dân bỏ hoang không canh tác hoặc chuyển sang trồng các loại cây trồng khác.
Trong phần diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả, có những vị trí phù hợp để thu hút đầu tư các Dự án Kinh doanh dịch vụ sân golf do có địa hình thuận lợi; hiện có nhiều nhà đầu tư quan tâm đăng ký thực hiện Dự án Đầu tư xây dựng và kinh doanh sân golf tại các khu vực nêu trên.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1, Điều 6, Nghị định số 52, ngày 27/4/2020 của Chính phủ về đầu tư xây dựng và kinh doanh sân golf; đất trồng lúa là một trong các loại đất không được sử dụng để xây dựng sân golf và công trình phụ trợ phục vụ cho hoạt động kinh doanh sân golf.
Ngoài ra, Nghị định số 52 cũng đề cập, chỉ có quy định Dự án Sân golf ở vùng trung du, miền núi được sử dụng tối đa không quá 5 ha đất trồng lúa một vụ, phân tán tại địa điểm xây dựng và phải đáp ứng điều kiện về bảo vệ, phát triển đất trồng lúa, điều kiện thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
“Để tạo điều kiện thu hút đầu tư, phát huy hiệu quả sử dụng đất, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, cử tri kiến nghị nghiên cứu trình Chính phủ xem xét, nghiên cứu sửa đổi các quy định liên quan đến vấn đề trên”, cử tri tỉnh Phú Yên đề xuất.
Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, nội dung cử tri tỉnh Phú Yên đề cập về Dự án Sân golf ở vùng trung du, miền núi được sử dụng tối đa không quá 5 ha đất trồng lúa một vụ…được quy định tại khoản 2, Điều 6 của Nghị định trên.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay, việc cho phép sử dụng tối đa 5 ha đất trồng lúa 1 vụ, phân tán chỉ được áp dụng cho khu vực trung du, miền núi; không áp dụng cho các khu vực khác.
“Việc quy định chặt chẽ về diện tích, khu vực được áp dụng như trên nhằm mục đích kiểm soát chặt chẽ diện tích đất trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tránh các kẽ hở chính sách để lợi dụng chuyển đổi đất lúa tràn lan sang làm sân golf”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông tin.
Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư bổ sung, hiện nay, chưa có địa phương đề xuất việc chuyển đổi này. Trường hợp có nhiều địa phương đề xuất sử dụng đất trồng lúa hiệu quả thấp để thực hiện Dự án Đầu tư xây dựng và kinh doanh sân golf, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp, nghiên cứu và kiến nghị cấp thẩm quyền xem xét điều chỉnh cho phù hợp.
Để lại một phản hồi