Bắc Cực đang ấm lên nhanh gấp 4 lần so với phần còn lại của thế giới, thậm chí một số vùng còn lên đến 7 lần. Thông tin này được đưa ra bởi một nhóm các nhà nghiên cứu Na Uy trên chuyên trang Nature.
Một trong những lý do lớn nhất cho kết quả đáng sợ này là sự tan băng bao phủ trên biển ở vùng Bắc Cực, do mặt nước dễ hấp thụ bức xạ mặt trời hơn mặt băng trắng xóa. Trong khi băng tan càng nhiều, tình hình ấm lên càng gia tăng. Theo một nghiên cứu, nhiệt độ mặt biển Bắc Cực gia tăng đáng kể trong khi nhiệt độ mặt băng không ảnh hưởng quá nhiều. Vòng lặp này được gọi là “điểm tới hạn trong hệ thống khí hậu”.
Những thay đổi ở Bắc Cực có thể tạo ra dây chuyền ảnh hưởng đến cả hành tinh. Chẳng hạn, lớp băng tan ở Greenland đủ khả năng làm dâng mực nước biển, nhấn chìm nhiều vùng đất; hoặc, sự xáo trộn dòng biển cũng tạo ra tác động lên các hình mẫu thời tiết toàn cầu.
Với tình cảnh đó, một câu hỏi được đặt ra là có cách nào để chúng ta ngăn chặn sự ấm lên toàn cầu, đặc biệt là ở Bắc Cực hay không? Các nhà khoa học đưa ra 2 sáng kiến, tuy nhiên chúng vẫn chưa được chứng minh là có hiệu quả trong thực tiễn và thoạt nghe ai cũng nghĩ là điên rồ.
Xả khí vào tầng bình lưu
Theo Inverse, ý tưởng đầu tiên là xả các loại khí như SO2 vào khí quyển. SO2 là hợp chất vô cơ, không màu và có độc. Họ đề xuất xả các vật chất đó vào tầng bình lưu, tạo ra những vi hạt phản chiếu bớt ánh sáng mặt trời vào không gian
Khi bức xạ mặt trời chiếu xuống mặt đất giảm đi, bề mặt Trái Đất có thể nguội đi. Quá trình này được gọi là “stratospheric aerosol injection” (tạm dịch: Kỹ thuật phun khí sol vào tầng bình lưu).
Khái niệm này đã được nghiên cứu trong một thời gian dài và tương tự khi một ngọn núi lửa phun trào. Chẳng hạn, vào năm 1991, vụ phun trào Núi Pinatubo ở Philippines đã xả 20 triệu tấn SO2 và tro bụi vào khí quyển, làm giảm 0,5 độ C trên toàn cầu trong 1 năm – tạm thời xóa bỏ đến 50% mức nóng lên toàn cầu kể từ thời kỳ tiền công nghiệp.
Làm mát Trái Đất bằng cách này yêu cầu việc “bơm” SO2 vào tầng bình lưu ở các vĩ độ thấp. Lượng vật chất ấy sau đó sẽ được phân bố toàn cầu bởi gió và đến vùng cực ở bán cầu nó được xả vào, tạo ra một lớp “khiên” phản chiếu. Nếu quá trình được thực hiện ở cả 2 bán cầu, nó sẽ làm mát cả hành tinh.
Tuy nhiên, vì tầng bình lưu ở xích đạo cao hơn nhiều (cách mặt đất 17km) so với vùng cực (khoảng 9km), nên cách khả thi hơn là sẽ chỉ “xả” khí ở các vùng cận cực.
“Làm sáng” mây
Ý tưởng thứ 2 là “làm sáng” mây che phủ đại dương với mục đích tương tự, phản chiếu bớt bức xạ mặt trời vào không gian. Ý tưởng này xuất phát từ việc quan sát được trong một số điều kiện, các vi hạt được xả ra từ ống khói các con tàu có thể tạo ra mây phía trên đại dương.
Mấu chốt là, loại mây hình thành phía trên đại dương phụ thuộc vào kích thước của các tinh thể muối. Nếu các tinh thể đủ nhỏ, thì các đám mây được hình thành từ rất nhiều giọt nhỏ. Điều này rất quan trọng vì những đám mây bao gồm các giọt nhỏ có vẻ trắng hơn những đám có các giọt lớn hơn và do đó phản xạ nhiều ánh sáng mặt trời hơn, ngay cả khi các đám mây có tổng lượng nước như nhau.
Do đó, có thể “tẩy trắng” các đám mây bằng cách tạo ra nhiều sol khí từ nước biển hơn. Điều này có thể đạt được ở gần Bắc Cực thông qua việc triển khai các thuyền có máy bơm và vòi phun.
Trên đây là 2 ý tưởng có thể giúp bảo tồn lớp băng ở Bắc Cực và cho chúng ta thời gian trong khi nỗ lực giải quyết gốc rễ thực sự của vấn đề – hiệu ứng nhà kính tạo ra bởi CO2 và hoạt động xả thải của con người.
Tuy nhiên, cả 2 ý tưởng ngăn chặn sự ấm lên ở Bắc Cực này đều cần nhiều nghiên cứu và phát triển tập trung hơn, có thể yêu cầu những nỗ lực hợp tác toàn cầu.
Nguồn: Inverse
Để lại một phản hồi