Chuyên gia BSC: “Thị trường đang định giá hấp dẫn”

Ông Trần Thăng Long, Giám đốc Phân tích, CTCP Chứng khoán BIDV (BSC) đã có những chia sẻ về sự ảnh hưởng của xu hướng tăng lãi suất cũng như cơ hội đầu tư chứng khoán tại Talkshow Phố Tài Chính trên VTV8 mới đây.

BTV Mùi Khánh Ly: GDP của Việt Nam quý III/2022 vẫn rất tích cực, các cân đối lớn được đảm bảo, ông đánh giá sao về điều này?

Ông Trần Thăng Long, Giám đốc Phân tích, Công ty CP Chứng khoán BIDV (BSC): Mức GDP tăng cao trong quý III năm nay phần nào đi với kỳ vọng chung của rất nhiều nhà nghiên cứu ở trên thị trường. Năm ngoái do ảnh hưởng của dịch Covid, chúng ta đã có một quý III với GDP sụt giảm khoảng 6,5%. Do vậy, khi năm nay tăng trưởng trở lại hơn 13,6%, mức trung bình tăng trưởng nếu bỏ những yếu tố trên ra sẽ rơi vào khoảng 6,5% là khá sát với kỳ vọng.

Ngoài ra, yếu tố lạm phát thì đây là một trong những chỉ tiêu Việt Nam đang làm tốt hơn khá nhiều so với phần còn lại của các quốc gia khác. Lạm phát ở Mỹ, đặc biệt là ở Châu Âu tăng rất nhanh và phần nào chưa dừng lại khi chuẩn bị bước vào mùa đông năm nay. Vì vậy, về mặt chu kỳ, thị trường cũng như nền kinh tế thế giới đều đang trải qua một giai đoạn khó khăn, Việt Nam đang làm tốt hơn, phản ánh đúng những chính sách mà chúng ta đã thực hiện trong suốt quá trình vừa qua.

Tuy nhiên, một trong những chính sách để đảm bảo được các cân đối lớn đó là chính sách tiền tệ. Mới đây Ngân hàng Nhà nước cũng đã chính thức tăng lãi suất, theo ông điều này có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của kinh tế trong thời gian tới không?

Trong giai đoạn Covid, đa số chính phủ các quốc gia đều thi hành những chính sách hỗ trợ nền kinh tế, các Ngân hàng Trung ương đã thi hành những chính sách nới lỏng để hỗ trợ cho kinh tế và tăng trưởng vượt qua giai đoạn suy thoái của 2020. Sau đó, khi mà dịch bệnh đã kiểm soát tốt rồi thì các Ngân hàng Trung ương phải đối diện với một bài toán thứ hai xảy ra là lạm phát tăng quy mô không phải chỉ ở một vài quốc gia mà ở quy mô toàn cầu, đặc biệt là các khu vực mà kinh tế phát triển như Liên minh châu Âu (EU) hay Mỹ. Do vậy các Ngân hàng Trung ương đều theo hướng thắt chặt hơn và nâng mặt bằng lãi suất lên để chống lạm phát. Hiện tại các quốc gia xung quanh Việt Nam cũng như các quốc gia ở châu Âu hay Mỹ đều tăng lãi suất và không chỉ một lần mà là 3-4 lần từ đầu năm đến nay.

Chúng ta cần phải nâng lãi suất lên vì thị trường tài chính có tính liên thông rất cao. Khi chúng ta duy trì một chính sách ngược lại với chính sách của các quốc gia khác thì cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định. Do vậy đây là việc mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng không có nhiều lựa chọn mà buộc phải đưa ra một chính sách phù hợp chung với thế giới hiện nay.

Đương nhiên khi lãi suất tăng thì các hoạt động kinh tế có xu hướng chậm lại, do vậy nên tăng trưởng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, trước mắt tôi nghĩ sẽ không có ảnh hưởng quá nhiều. Năm ngoái khi dịch bệnh thì GDP suy giảm. Do vậy quý III, quý IV năm nay kể cả khi tăng trưởng rất bình thường thì tỷ lệ so với năm ngoái vẫn sẽ đạt mức cao hơn cả kỳ vọng đặt ra về mặt chỉ tiêu của Chính phủ, Quốc hội.

Trong tương lai sắp tới có thể ảnh hưởng sẽ lớn hơn. Chính sách tiền tệ sẽ không có tác động ngay lập tức mà thông thường sẽ rơi vào khoảng 3-6 tháng. Lúc đó mới nhìn thấy rõ ảnh hưởng của việc thay đổi chính sách vào doanh nghiệp và nền kinh tế.

Vậy các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị tác động nhiều như thế nào?

Đối với doanh nghiệp, chúng tôi tính rằng mức ảnh hưởng về lợi nhuận tổng thị trường vào khoảng 2,5% trở lên cho mỗi 1% tăng của lãi suất. Tăng trưởng của doanh nghiệp theo dự báo của chúng tôi vẫn update từ đầu năm thì vào tầm khoảng 25% tổng lợi nhuận thị trường so với cả năm ngoái.

Tuy nền kinh tế có nhiều diễn biến tích cực nhưng trong thời gian dài thị trường cũng đang thiếu đi dòng vốn ngoại, ông đánh giá sao về điều này ạ?

Trong khoảng 6 tuần gần đây, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng khoảng 4.100 tỷ đồng. Thị trường trong ngắn hạn có những biến động lớn, khi NĐT nước ngoài bán ròng và ít có những deal phát hành cổ phiếu cho các NĐT chiến lược nước ngoài. Về dài hạn, thì chúng tôi đánh giá Việt Nam vẫn là điểm đến quan trọng của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là đối với các công ty có nền tảng tốt, kiên nhẫn, và có định hướng tăng trưởng tốt.

Chúng tôi đang trong quá trình hoàn thiện giao dịch từ phía đối tác Hana Securities Hàn Quốc, họ cũng đã mua cổ phiếu phát hành thêm của BSC và trở thành cổ đông chiến lược, nắm giữ khoảng 35% vốn của BSC và tổng quy mô giao dịch của lần này khoảng 2.700 tỷ đồng Việt Nam, tương đương khoảng 113 triệu Đô la Mỹ. Đây là một giao dịch hiếm hoi trong tình hình thị trường tài chính thế giới đang ở giai đoạn khó khăn và nguồn vốn của các nhà đầu tư đang được sắp xếp lại trên phạm vi toàn cầu. Ngoài những nỗ lực của rất nhiều phía, từ quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa ngân hàng mẹ của chúng tôi là BIDV và Tập đoàn Tài chính Hana Group Hàn Quốc từ năm 2019 cho đến nay, tôi nghĩ với những kinh nghiệm của BSC cho thấy, cần phải rất kiên trì, nhẫn nại, cần phải làm việc chặt chẽ với đối tác và cùng hướng đến một mục tiêu chung để phát triển doanh nghiệp sau khi phát hành tăng vốn như là tập trung vào phát triển thị trường trong nước, thúc đẩy hoạt động bán lẻ, thúc đẩy chuyển đổi số, đồng thời là phát triển hệ thống khách hàng ở nước ngoài…

Thị trường chứng khoán luôn nhạy cảm và đi trước các sự kiện kinh tế, vậy bước sang giai đoạn lãi suất tăng này thị trường sẽ như thế nào?

Các chính sách hiện tại của các quốc gia đa số là theo hướng thắt chặt, đặc biệt là từ FED cũng ảnh hưởng rất nhiều tới các chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư khi phân bổ tài sản phạm vi toàn cầu. Việt Nam cũng sẽ khó có thể nằm ngoài xu hướng chung này. Đến thời điểm hiện tại, diễn biến thị trường chứng khoán toàn cầu khá xấu và đi xuống.

Còn đối với nội tại chúng ta cũng đang gọi là may mắn hơn một chút, trong dịch bệnh Covid, chúng ta không phải quá mạnh mẽ trong việc cắt giảm lãi suất hay thi hành chính sách tiền tệ nới lỏng, do vậy vẫn còn những dư địa tăng trưởng. Ngoài ra, chúng ta vẫn còn một phần rất quan trọng liên quan đến đầu tư công dự trữ cho Việt Nam. Trong tương lai 1-2 năm tới khi kinh tế toàn cầu có rơi vào suy thoái hay tăng trưởng rất chậm thì chúng ta vẫn còn những “room” chính sách để có thể thúc đẩy tăng trở lên.

Còn đối với doanh nghiệp, sẽ phải thích nghi với một môi trường mới khi mà lãi suất gia tăng. Nhưng với những nỗ lực của Chính phủ, của Quốc hội, của Việt Nam cũng như là những “room” chính sách vẫn đang còn thì chúng ta sẽ vẫn là một điểm đến quan trọng hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong nước cũng như quốc tế.

Còn phía nhà đầu tư, cơ hội nào cho họ trong bối cảnh này?

Đối với một giai đoạn thị trường biến động lớn, cộng với những yếu tố bên ngoài không xác định được thì các hoạt động đầu tư ngắn hạn hay thường gọi là trading nên hạn chế hoặc chỉ nên duy trì một mức độ nhất định theo khả năng kiểm soát rủi ro của chính nhà đầu tư. Còn hoạt động đầu tư dài hạn thì giai đoạn này là một giai đoạn thử thách với nhà đầu tư. Có thể cân nhắc đến những ngành nào ít chịu ảnh hưởng chung bởi lãi suất hay những yếu tố bên ngoài.

Nhìn chung qua nhiều năm, qua các đợt khủng hoảng khác, những ngành liên quan đến tiêu dùng hoặc những ngành thiết yếu như điện, nước, gas đều những ngành tăng trưởng rất ổn định và không bị ảnh hưởng quá nhiều. Còn về mặt dài hạn, đối với Việt Nam thì mức P/E của thị trường chung rơi vào mức khoảng 10 lần, đang là một mức khá hấp dẫn.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*