Làn sóng bảo hộ làm trầm trọng thêm khủng hoảng lương thực?

Xu hướng bảo hộ lương thực lan rộng trên toàn cầu

Cuộc xung đột Nga – Ukraine đã khiến nguồn cung lương thực toàn cầu bị siết chặt, đẩy giá cả leo thang với tốc độ nhanh nhất từ trước tới nay. Trong bối cảnh đó, một rủi ro mới đang ngày càng trở nên rõ ràng hơn, đó là làn sóng các quốc gia áp đặt những biện pháp hạn chế hoặc cấm xuất khẩu lương thực để đảm bảo nguồn cung cho thị trường trong nước.

Theo Bloomberg, châu Á đang nổi lên là tâm điểm của làn sóng bảo hộ này, khi ngày càng nhiều quốc gia áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu.

Malaysia vừa cho biết sẽ tạm ngừng xuất khẩu thịt gà kể từ ngày 1/6, trong bối cảnh quốc gia này đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn cung nội địa và giá cả leo thang.

 Làn sóng bảo hộ làm trầm trọng thêm khủng hoảng lương thực? - Ảnh 1.

Malaysia tạm ngừng xuất khẩu thịt gà từ ngày 1/6. (Ảnh minh họa – Ảnh: Bernama).

Trước đó, một quốc gia Đông Nam Á khác là Indonesia cũng từng phải tạm dừng xuất khẩu dầu cọ vì lý do tương tự.

Ấn Độ – nền kinh tế lớn thứ 3 châu Á mới đây cũng đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu lúa mì và hạn chế xuất khẩu đường với lý do đảm bảo ổn định thị trường trong nước.

Lãnh đạo các nước lý giải việc ban hành lệnh hạn chế xuất khẩu

“Tôi đã quyết định cấm xuất khẩu dầu ăn. Tôi sẽ theo dõi và đánh giá chặt chẽ việc thực hiện chính sách này để đảm bảo nguồn cung dầu ăn trong nước vẫn dồi dào”, Tổng thống Indonesia Joko Widodo nhấn mạnh.

“Chúng tôi không muốn hoạt động buôn bán lúa mì diễn ra mất kiểm soát, có thể dẫn tới tình trạng tích trữ đầu cơ khiến lúa mì không được sử dụng với mục đích đúng đắn là phục vụ nhu cầu lương thực của các quốc gia và người tiêu dùng dễ bị tổn thương”, ông B.V.R Subrahmanyam, Thứ trưởng Bộ Thương mại Ấn Độ, cho biết.

Theo Bloomberg, hiện đã có gần 30 quốc gia áp đặt các biện pháp hạn chế xuất khẩu kể từ khi xung đột bùng nổ tại Ukraine tới nay và xu hướng này được dự báo sẽ gia tăng trong thời gian tới, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu.

Bảo hộ lương thực làm trầm trọng hóa lạm phát toàn cầu

Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, giá nhiều mặt hàng chủ lực đã trở nên đắt đỏ hơn trong năm nay, ví dụ như giá sữa tăng 14%, giá dầu cọ tăng 38%. Giá lúa mì giao kỳ hạn thậm chí đã tăng tới 56%, trong khi lượng dự trữ toàn cầu được dự báo chỉ đủ dùng trong 10 tuần.

Sự leo thang giá cả này hiện đang gây khó khăn lớn cho người dân và các doanh nghiệp tại nhiều quốc gia.

Theo các chuyên gia, người dân tại những quốc gia nghèo khó sẽ là đối tượng dễ bị tổn thương nhất trước tình trạng thiếu hụt và tăng giá thực phẩm. Chương trình lương thực thế giới cho biết, nạn đói hiện đang tấn công 43 quốc gia, ảnh hưởng tới 325 triệu người.

“Hãy đặt mình vào vị trí của người dân ở các nước thu nhập thấp hoặc trung bình, nơi bạn sẽ phải chi ít nhất 50% thu nhập cho lương thực thực phẩm. Và rồi đột nhiên các mặt hàng này đột nhiên tăng giá mạnh. Đó là thực tế đang xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới”, ông Arif Hussain, chuyên gia kinh tế trưởng Chương trình Lương thực Thế giới, nói.

Các quốc gia giàu có hơn cũng không phải là ngoại lệ. Tại Anh, gần 10 triệu người đã phải cắt giảm chi tiêu cho thực phẩm do giá cả leo thang, trong khi chính phủ Pháp dự kiến sẽ phát hành phiếu mua thực phẩm ưu đãi cho các hộ gia đình gặp khó khăn. Tại Mỹ, sự lo lắng cũng gia tăng khi lạm phát đang ở mức cao nhất trong vòng 40 năm qua.

“Tôi không nghĩ giá cả đã đạt đỉnh và vẫn có thể tăng cao hơn nữa. Mọi thứ đang rất tệ, nhưng điều tồi tệ nhất có lẽ vẫn chưa đến”, chị Sarah Steckler, người tiêu dùng Mỹ, bày tỏ.

Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh ăn uống cũng đang chịu thiệt hại nặng nề. Từ các công ty phân phối cho tới nhà hàng, quán ăn đều đứng ngồi không yên trước tác động từ các biện pháp hạn chế xuất khẩu.

“Hiện giờ chúng tôi đang cố gắng xoay xở, thu hẹp khoảng cách giữa nguồn cung và nhu cầu của khách hàng. Hầu hết đều đang muốn mua thêm gà để tích trữ và có đủ hàng để bán trong thời gian tới. Họ đang cảm thấy lo lắng”, ông James Sim, Giám đốc phát triển Tập đoàn thực phẩm KEE SONG, Singapore, cho biết.

 Làn sóng bảo hộ làm trầm trọng thêm khủng hoảng lương thực? - Ảnh 2.

Người dân Indonesia mua dầu ăn làm bằng dầu cọ tại một siêu thị ở Jakarta. (Ảnh: Reuters)

“Tôi đã phải tìm mọi cách để tồn tại, nhưng giờ chi phí lao động và mọi thứ đều tăng. Nếu giá dầu ăn tăng nữa, tôi chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc tăng giá”, bà Kang Jung A, chủ nhà hàng tại Hàn Quốc, chia sẻ.

Với việc chủ nghĩa bảo hộ nổi lên đúng vào thời điểm chuỗi cung ứng lương thực thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức, từ biến đổi khí hậu, đại dịch COVID-19 cho tới xung đột, các nhà phân tích lo ngại, áp lực lạm phát toàn cầu có thể gia tăng mạnh hơn nữa trong thời gian tới, trở thành bài toán khó đối với các ngân hàng trung ương.

Các quốc gia đều khẳng định rằng, những biện pháp hạn chế xuất khẩu chỉ mang tính tạm thời và sẽ sớm được dỡ bỏ ngay khi nguồn cung thị trường trong nước trở lại ổn định.

Tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng, hạn chế xuất khẩu không thể được coi là giải pháp mang tính bền vững trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu có sự gắn bó và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau và bất kỳ sự xáo trộn dù chỉ ở một mắt xích, cũng có thể tiềm ẩn rủi ro cho cả hệ thống. Quan điểm này đã được bà Kristalina Georgieva, Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc (IMF), tái khẳng định trong một cuộc trả lời phỏng vấn bên lề Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) tại Davos, Thụy Sĩ trong tuần qua.

“Có hai điều cần được làm và phải làm một cách nhanh chóng. Một là ngăn chặn các biện pháp hạn chế thương mại, khi đã có tới 30 quốc gia hạn chế xuất khẩu các mặt hàng lương thực. Điều này chỉ khiến cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ hơn. Hai là phải gia tăng sản lượng lương thực ở bất cứ nơi nào có thể. Điều này có thể thực hiện bằng việc hỗ trợ tài chính để người nông dân sản xuất nhiều hơn”, bà Kristalina Georgieva, Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc (IMF), nhận định.

Việc tăng sản lượng lương thực ở bất cứ nơi nào có thể đang là yêu cầu cấp thiết đối với tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh các chính sách hỗ trợ tài chính để khuyến khích sản xuất, người nông dân cũng cần được đảm bảo rằng, sản phẩm của họ có thể được bán với mức giá tốt, không chịu tác động từ các biện pháp hạn chế xuất khẩu.

Hạn chế xuất khẩu gây khó cho hoạt động sản xuất nông nghiệp

Thành phố Khanna, bang Punjab là nơi có thị trường ngũ cốc lớn nhất Ấn Độ cũng như cả châu Á. Tuy nhiên những ngày này, các nông dân và nhà buôn tại đây đang phải đối diện với khó khăn không nhỏ với việc tiêu thụ hàng, sau khi chính phủ ra lệnh tạm ngừng xuất khẩu lúa mì.

“Tại đây và nhiều nơi khác bắt đầu chứng kiến tình trạng giá sụt giảm. Cách đây vài ngày giá bột mì là 2.350 Rupee/tạ, nhưng hôm nay đã xuống chỉ còn 2.250 Rupee”, ông Raj Sood, nhà buôn ngũ cốc, Ấn Độ, cho hay.

 Làn sóng bảo hộ làm trầm trọng thêm khủng hoảng lương thực? - Ảnh 3.

Công nhân nông trại thu hoạch lúa mì tại một ngôi làng ở ngoại ô Ajmer, bang Rajasthan (Ấn Độ). (Ảnh: PTI)

Nhiều nông dân vốn đã khốn đốn khi sản lượng năm nay bị ảnh hưởng bởi thiên tai, nay lại càng thêm khó khăn khi mất nguồn thu từ việc bán hàng cho các nhà xuất khẩu.

“Chúng tôi chỉ thu được gần một nửa sản lượng so với mùa vụ trước do nắng nóng bất thường, giờ lại còn không bán được hàng nữa”, ông Rajwant Singh, nông dân Ấn Độ, chia sẻ.

Theo các chuyên gia, thay vì cấm xuất khẩu, Ấn Độ có thể đưa ra những biện pháp khác để ổn định nguồn cung nội địa, như trợ cấp cho nông dân để khuyến khích họ gia tăng diện tích canh tác.

Nguy cơ thiệt hại cho giới sản xuất trong nước cũng là một trong những lý do khiến Indonesia dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu dầu cọ chỉ sau 3 tuần. Đây là quyết định cần thiết khi giá dầu ăn trong nước đã hạ nhiệt phần nào và nhu cầu với dầu cọ Indonesia từ thị trường quốc tế là rất lớn.

“Phần lớn trong tổng sản lượng của chúng tôi là dành cho xuất khẩu. Nếu lệnh cấm kéo quá dài thì mọi thứ sẽ trở nên hỗn loạn, các nhà sản xuất sẽ mất động lực để gia tăng sản lượng”, ông Sahat Sinaga, Tổng Giám đốc Hiệp hội Dầu thực vật Indonesia, đánh giá.

Là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của quốc gia vạn đảo, dầu cọ đóng góp lớn vào nguồn thu ngoại tệ của nước này. Các chuyên gia ước tính, thiệt hại đối với Indonesia có thể lên đến 3 tỷ USD từ đợt cấm xuất khẩu vừa qua.

Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong dài hạn, việc gia tăng sản lượng và tăng cường thương mại mới là chìa khóa để ứng phó với cuộc khủng hoảng lương thực hiện nay, không phải các biện pháp hạn chế xuất khẩu, bởi không quốc gia nào có thể tự giải quyết các thách thức một mình.

Khủng hoảng lithium nghiêm trọng: Bão giá tăng 500% chỉ sau 1 năm, nguy cơ thâm hụt vĩnh viễn khiến Trung Quốc ‘đỏ mắt’ tìm nguồn cung trữ mỏ mới

Theo PV

VTV

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*