Tài chính cho năng lượng xanh: Yếu tố then chốt là khả năng sinh lời và dự báo

.
Tọa đàm “Quản trị và tài chính cho chuyển dịch năng lượng công bằng” do Báo Đầu tư tổ chức diễn ra chiều ngày 29/7

Chuyển đổi năng lượng công bằng đòi hỏi quy mô tài chính khổng lồ

Tại Hội nghị thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc năm 2021, Chính phủ Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050, ngừng đầu tư sản xuất điện than mới, mở rộng quy mô triển khai điện sạch và loại bỏ điện than vào những năm 2040.

Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam, khi vừa thực hiện cam kết về biến đổi khí hậu và chuyển đổi năng lượng, vừa đảm bảo đạt mục tiêu phát triển bền vững, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy chuyển đổi kinh tế.

Nói về khái niệm chuyển đổi năng lượng công bằng, tại buổi Tọa đàm “Quản trị và tài chính cho chuyển dịch năng lượng công bằng” do Báo Đầu tư tổ chức diễn ra chiều 29/7, bà Kanni Wignaraja, Trợ lý Tổng thư ký Liên hợp quốc kiêm Giám đốc khu vực châu Á – Thái Bình Dương của UNDP cho biết chuyển đổi năng lượng công bằng đề cập đến việc thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng năng lượng tái tạo theo cách thức góp phần vào việc đạt được bình đẳng xã hội và kinh tế.

Một quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng hướng tới việc giảm phát thải khí nhà kính đồng thời đạt kêu gọi tiếp cận với các nguồn giá cả phải chăng, đáng tin cậy, bền vững và hiện đại nhằm cung cấp năng lượng cho tất cả mọi người.

Với mục tiêu tham vọng đề ra, số liệu ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam vừa mới công bố cho thấy, để thực hiện lộ trình tăng trưởng xanh, thích ứng với khí hậu và phát thải ròng bằng “0”, dự kiến Việt Nam sẽ cần đầu tư thêm khoảng 6,8% GDP, tương đương 368 tỷ USD từ nay đến năm 2040.

Yếu tố then chốt là khả năng sinh lời và dự báo

Tại Tọa đàm, các nhà hoạch định chính sách và chuyên gia trình bày những khuyến nghị chính sách giúp thu hút nguồn tài chính cần thiết cho chuyển dịch năng lượng, bài học từ kinh nghiệm của các nước Đông Nam Á và vai trò của các ngân hàng phát triển xanh trong việc thúc đẩy hành động vì khí hậu.

Tài chính là yếu tố quan trọng trong việc đạt được chuyển đổi năng lượng công bằng. Trong đó, khả năng sinh lời và khả năng dự báo là những yếu tố then chốt trong tài chính. Nếu thiếu 2 yếu tố này, nguồn tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo có khả năng bị hạn chế.

Theo ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó viện trưởng, Viện Chiến lược Ngân hàng cho rằng, nhiều yếu tố tạo ra cơ hội đón dòng tài chính xanh của Việt Nam.

Như Hội nghị COP26 đã thúc các nước phát triển góp đủ 100 tỷ USD đến 2025. Các đối tác cam kết đầu tư 130 tỷ USD đến 2030 cho VN qua Quỹ khí hậu sạch (WB), ADB, Quỹ liên minh năng lượng toàn cầu… Cùng đó, kỷ nguyên đầu tư carbon thấp; xu hướng đầu tư vào nhiên liệu hóa thạch trở nên rất rủi ro… cũng mở cơ hội đầu tư.

Tại Việt Nam, mục tiêu đến năm 2025 của Đề án Ngân hàng xanh được Thống đốc ban hành 2018 đặt mục tiêu tăng dần tỷ lệ của tín dụng xanh trên tổng dư nợ, 60% ngân hàng tiếp cận và triển khai cho vay các dự án tín dụng xanh…

Tuy nhiên, cùng với cơ hội, ông Hỏe cũng chỉ ra 4 thách thức đối với tài chính xanh cùng loạt kiến nghị thúc đẩy lĩnh vực này.

Cụ thể, thách thức đến từ thiếu nguồn vốn, lãi suất và kỳ hạn không tối ưu. Chính sách hỗ trợ đối tài chính xanh thiếu vắng về thanh khoản, lãi suất, thuế, phí. Chưa có chính sách ưu ái cho doanh nghiệp phát triển xanh cũng như thiếu vắng chi tiêu công xanh.

Nhận thức, thói quen tiêu dùng xanh chưa cao. Một thách thức khác theo ông Hòe có lẽ là lớn nhất là về chính sách khi tư duy chính sách và tính đồng bộ của chính sách.

Một số vấn đề về quản trị như thị trường minh bạch, cạnh tranh, thỏa thuận mua bán điện trực tiếp, môi trường pháp lý, quy định về xây dựng, truyền tải và phân phối cho các nhà sản xuất đóng vai trò quan trọng trong huy động tài chính.

Khi các công cụ tăng tốc quản trị được đưa ra, tài chính sẽ đến từ đầu tư công thông qua thuế, phát hành trái phiếu trong nước; nguồn tài chính tư nhân quốc tế; nguồn tài chính từ khu vực tư nhân trong nước.

Kinh nghiệm các nước cho thấy phần lớn nguồn vốn cần thiết sẽ đến từ các nguồn trong nước, các ngân hàng phát triển nội địa có thể cung cấp tài chính trong nước dài hạn trợ cho các dự án phức tạp và chậm tiến độ.

Nhu cầu năng lượng của Việt Nam sẽ tăng nhanh trong ba thập kỷ tới khi giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và xây dựng chuyển đổi từ điện than sang điện từ năng lượng mặt trời, gió và các hệ thống tái tạo khác. Để năng lượng tái tạo cân bằng cacbon, nhu cầu điện có thể tăng gấp 5 lần vào năm 2050.

Trong bối cảnh Việt Nam vừa thực hiện cam kết về biến đổi khí hậu và chuyển đổi năng lượng, vừa đảm bảo đất nước đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, quản trị và tài chính là giải pháp mang lại hiệu quả cho chuyển dịch năng lượng công bằng.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.


*