Hiện có khoảng 7 triệu tài khoản nhà đầu tư cá nhân giao dịch trên thị trường. Theo ông, con số này liệu đã tương xứng với tiềm năng của thị trường chứng khoán Việt Nam chưa và nhìn nhận của ông về triển vọng thị trường tới đây?
Việc hiện có gần 7 triệu tài khoản giao dịch của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường (tương đương với 7% dân số Việt Nam) là khá cao và là dấu hiệu tích cực cho tương lai thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên, để phát triển hiệu quả cần phải cải thiện tính thanh khoản của thị trường.
Hiện nay, niềm tin vào thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân có xu hướng giảm do một số vấn đề phát sinh trong năm 2022, bên cạnh mối quan hệ cung cầu suy yếu rõ rệt. Vì vậy, tôi cho rằng việc phục hồi niềm tin của các nhà đầu tư cá nhân sẽ là động lực lớn nhất thúc đẩy thị trường trong ngắn hạn. Về lâu dài, giá cổ phiếu và thanh khoản sẽ biến đổi dựa trên tiềm năng phát triển của từng doanh nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung.
Ông đánh giá như thế nào về thị trường chứng khoán Việt Nam tại thời điểm hiện tại?
Kể từ khi bắt đầu giao dịch vào năm 2000, quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam đã được mở rộng rõ rệt. Mặc dù hệ thống pháp luật liên quan được xây dựng và phát triển khá tốt, vẫn còn tồn tại một số vấn đề về chất lượng của các công ty niêm yết và công ty chứng khoán cũng như sự hiện diện hạn chế của các nhà đầu tư tổ chức trong nước. Các biện pháp cải thiện chất lượng của công ty niêm yết và tổ chức trung gian (công ty chứng khoán và quỹ) sẽ là chủ đề quan trọng trong thập kỷ tới.
Bên cạnh đó, mức tăng trưởng chậm về số lượng các công ty niêm yết và các hoạt động gây quỹ trong những năm gần đây cũng là một vấn đề lớn cần giải quyết. Bởi như chúng ta thấy, trong khi số lượng nhà đầu tư cá nhân tại Việt Nam đã tăng đáng kể từ khoảng 2 triệu người lên đến 7 triệu người trong 5 năm qua thì số lượng công ty niêm yết và tỷ lệ cổ phiếu lưu động có thể thanh khoản gần như không có sự thay đổi.
Điều này sẽ không khuyến khích các luồng đầu tư dài hạn dựa trên đánh giá tăng trưởng, mà luồng tiền của các nhà đầu tư sẽ được bơm vào hay rút ra tùy thuộc vào cảm tính thị trường và các sự kiện diễn ra trên thị trường. Do đó, chúng tôi tin rằng, một trong các giải pháp là Việt Nam nên áp dụng quy trình dựng sổ và bảo lãnh trong chào bán chứng khoán ra công chúng, giống như các thị trường chứng khoán lớn khác trên thế giới.
Nâng hạng thị trường lên thị trường mới nổi là điều cần thiết để có thể thu hút dòng vốn ngoại một cách ổn định. Việt Nam đã đưa ra lộ trình nâng hạng từ nhiều năm nay nhưng chưa đạt được. Theo ông, vấn đề chủ yếu ở đây là gì, có phải là các yếu tố thường được nói đến như việc cần công bố báo cáo bằng tiếng Anh hay tiêu chuẩn kế toán?
Theo tôi hiểu, MSCI cơ bản đánh giá về khả năng tiếp cận của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy tôi nghĩ rằng, vấn đề cơ bản và lớn nhất đối với Việt Nam là tỷ lệ Giới hạn sở hữu nước ngoài (FOL) và tỷ lệ giới hạn trên áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài theo quy định trong Điều lệ công ty. Việc công bố báo cáo bằng tiếng Anh hay tiêu chuẩn kế toán mà mọi người thường đề cập chỉ là vấn đề nhỏ so với FOL.
Những bài học từ Nhật Bản mà Việt Nam có thể áp dụng trong quá trình nâng hạng thị trường?
Yếu tố cần thiết để phát triển hiệu quả thị trường chứng khoán, không chỉ riêng đối với Nhật Bản, là việc đảm bảo tính “công bằng”, “hiệu quả” và “minh bạch”. Vấn đề này cũng đã được trình bày trong phần Mục tiêu và Nguyên tắc của IOSCO (Tổ chức Quốc tế về Ủy ban Chứng khoán).
Nhìn từ góc độ này, thị trường chứng khoán Việt Nam cần tập trung vào các nội dung: “cải thiện chất lượng của các công ty niêm yết”, “nâng cao nhận thức và năng lực tuân thủ của các công ty chứng khoán”, và “củng cố chức năng thị trường sơ cấp (niêm yết và chào bán chứng khoán ra công chúng)”.
Một số thông lệ của Nhật Bản và các thị trường tiên tiến khác mà tôi cho rằng Việt Nam nên cân nhắc áp dụng, gồm có: Phát huy vai trò của các tổ chức tự quản (SRO) để nâng cấp các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán; Củng cố việc thẩm định công ty niêm yết, trong đó tích hợp cả thẩm định định tính để nâng cao chất lượng của các công ty niêm yết; Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về dựng sổ và bảo lãnh phát hành đối với chào bán chứng khoán ra công chúng nhằm thúc đẩy hoạt động gây quỹ cũng như tạo cơ hội đầu tư hấp dẫn cho nhiều các nhà đầu tư, bao gồm nhà đầu tư nước ngoài.
Trong 4 năm qua, dự án hợp tác kỹ thuật của JICA “Nâng cao năng lực về cải thiện tính công bằng và minh bạch của thị trường cổ phiếu Việt Nam” (và tới đây sẽ tiếp tục một dự án tương tự) đã và sẽ hỗ trợ thế nào trong việc xây dựng lại niềm tin của nhà đầu tư trong nước?
Tôi cho rằng, việc thúc đẩy áp dụng các biện pháp “giám sát thị trường”, “giám sát công ty chứng khoán”, “cải thiện hoạt động quản lý chào bán chứng khoán ra công chúng và niêm yết” và “nâng cao nhận thức bảo vệ nhà đầu tư” mà dự án này đề xuất sẽ góp phần giúp gây dựng lại niềm tin của nhà đầu tư trong nước. Trên thực tế, dự thảo Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2021-2030 cũng đã tích hợp nhiều giải pháp được khuyến nghị bởi dự án này.
Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ đón những cơ hội và thách thức nào trong trung hạn?
Phần lớn các nhà đầu tư quốc tế đều có kỳ vọng cao về tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam và có động lực lớn trong việc đầu tư tại đây và đây là cơ hội lớn. Nhưng mặt khác, như tôi đã nói, hiện vẫn giữ quy định về tỷ lệ FOL nên các nhà đầu tư nước ngoài sẽ khó tham gia IPO (phát hành lần đầu ra công chúng) theo hình thức đấu giá. Về cơ bản, tôi cho rằng vấn đề về độ mở và linh hoạt của thị trường sẽ là thách thức lớn nhất trong trung hạn đối với sự tăng trưởng, phát triển cũng như gia tăng sự hiện diện của thị trường chứng khoán Việt Nam trên trường quốc tế.
Xin cảm ơn ông.
Để lại một phản hồi